Giang và Chung đã hẹn hò được 4 năm nên quyết định tiến tới hôn nhân. Chung là con trai duy nhất trong gia đình, cũng là “niềm tự hào” lớn nhất của cha mẹ và dòng họ.
Khi hẹn hò, Chung nói với Giang rằng bố mẹ anh có phần gia trịng. Giang không mấy bận tâm, cô hiểu một số suy nghĩ của thể họ cứ và cảm thấy rằng cha mẹ của Chung có thể chỉ là yêu con trai hơn con dâu, điều đó cũng không có gì phải lạ.
Cha mẹ của Giang khá hài lòng với Chung, nhưng cha mẹ của Chung lại không hài lòng với Giang. Lần đầu ra mắt, mẹ Chung đã chê Giang “quá gầy, khó cho sinh nở”. Giang cảm thấy ốn lạnh khi nghe điều này, nhưng Chung đã kịp thời ngăn mẹ anh lại và bảo Giang đừng bận tâm. Giang cứ gắng đểt câu chuyện đó xuống vì tin vào tình yêu với người mình đã chọn.
Mẹ của Chung vẫn chê con dâu tương lai nhiều điều, như không đủ cao, sở thế nào nếu cháu trai của bà sau này lại luôn như mẹ, hay mẹ gây quá thể này nuôi con đứa bị suy dinh dưỡng. Giang nghe rất khó chịu, muốn phản bác mấy lần nhưng đầu cứ gắng nhịn. Chung luôn tìm cách an ủi, nói mẹ mình như vậy chỉ qua vì bà nồng lòng mong có cháu bố mà thôi.
Hai người chọn ngày lành tháng tốt để đăng ký kết hôn rồi lên kế hoạch làm đám cưới. Chuyện sinh lễ mời Chung cũng khiến Giang buồn lòng nhưng vì thực sự yêu Chung nên cô đỡ được bỏ qua, không bàn cãi về tiền dân cưới và lễ hội.
Những điều khiến Giang rất một mực mới là từ khi xong đăng ký kết hôn, mẹ chồng nói nhiều hơn đến chuyện sinh con trai, càng ngày càng thường thấy. Có lúc bà còn tuyên bố thường, nhiệm vụ của con dâu sau khi kết hôn là sinh con trai cho nhà chồng. Giang thường thức không thể chịu đựng được và sợ nói vài lời với mẹ chồng, nhưng hầu hết thời gian, cô chọn cách phảt lời, vì Chung.
Cho tới ngày cưới, trái tim của Giang cuối cùng cũng nhỉnh, vì vừa chồng cô đã thương nhau rồng hổ sẽ ra ở riêng ngay. Bà bảo: “Con ạ, trước đây mẹ có nói gì con cũng không hiểu, nhưng bây giờ mẹ nói thường nhé. Sau khi cưới, nhiệm vụ của con là sinh con trai, sinh đủ thì đừng bỏ ăn nói với nhà chồng, không sinh đủ thì đừng mong nhận tiền hồi môn”.
Giang nóng bừng bằng một trức sự thường thấy của mẹ chồng. Người cô run lên không hiểu ở thời đại nào rồi mà mẹ chồng còn cứ hứa và nỗ lực phải có cháu trai như vậy. Vì bà đã không nặng mà nói thường, nên Giang nghĩ mình cũng không thể lờ đi như thường ngày.
Cô nhắn nhủ nhàng đáp lời mẹ chồng: “Mẹ, nhà mình có phải dòng dốt không?”.;i Vua Chúa gì đâu mà nhất định phải có con trai. Thời này, có con trai hay con gái gì cũng đáng quý”.
Mẹ chồng liền quát: “Mày vô lý quá con ạ! Không đẻ được con trai là có lỗi với nhà chồng đấy, còn dám ăn nói lung tung như thế à!”.
Giang mất bình tĩnh trả lời: “Mẹ đừng lo chuyện vợ chồng con sẽ sinh trai hay gái nữa. Trai hay gái gì cũng là con của chúng con và con sẽ yêu thương nó. Mẹ muốn phải là trai thì mẹ tự đẻ đi”.
Hai người gay gắt đến mức Chung nghe tiếng phải chạy vào kéo mẹ ra. Biết được lý do, Chung bảo mẹ: “Mẹ đừng nhắc lại chuyện này thêm, nếu không, sau khi ra ở riêng, vợ chồng con không về nhà này nữa”.
Nhìn vẻ mặt tức giận của con trai, bà mẹ nhất thời cảm thấy đau lòng. Nhưng Chung không thỏa hiệp. Thay vào đó, anh bảo vệ vợ và bày tỏ quan điểm rõ ràng về chuyện sinh con.
Khi Giang có thai, Chung liên tục nói trong suốt thai kỳ rằng dù là con trai hay gái cũng sẽ đều yêu thương chúng như nhau và không cho phép ông bà can thiệp.
Gặp phải mẹ chồng như nhà Giang – Chung trong thời đại này có lẽ đã là chuyện hiếm nhưng thực tế vẫn còn tồn tại trong một số gia đình mang nặng tư tưởng phong kiến cổ hủ, nhất nhất phải có cháu trai vì những lý do/ lợi ích rất khó cảm nhận được như “nối dõi tông đường”, “một mụn con trai cũng là có, mười đứa con gái cũng như không”.
Những tư tưởng này cho rằng con gái là con người ta, con trai mới là con mình, thuộc về dòng họ mình và những đứa con trai đó sẽ phụng dưỡng cha mẹ, hương khói cho ông bà tổ tiên, bất chấp một thực tế rTôi lại khốn khổ vì con trai, có khi chỉ được nhờ vào con gái.
Tình yêu của chúng ta dành cho các con không nên phân biết vì giới tính. Đứa trẻ nào sinh ra cũng cần được yêu thương, chăm sóc như nhau, và bảo bọc bằng yêu thương sẽ tạo ra những đứa trẻ hạnh phúc, những đứa con có hiếu với cha mẹ sau này.
Đã đến lúc cần xóa bỏ triệt để tư tưởng cổ hủ trọng nam khinh nữ, là nguyên nhân gây mất cân bằng giới tính, gây bất công cho phụ nữ và trẻ em gái trong xã hội. Sự xuất hiện của mỗi đứa trẻ là món quà tuyệt vời nhất mà thượng đế ban tặng cho một gia đình. Bọn trẻ không thể quyết định giới tính của mình, bởi vậy người lớn cũng đừng quyết định dành tình cảm của mình cho bọn trẻ chỉ dựa trên giới tính của chúng.