Hãy nuôi ngay một con mèo: Nó sẽ thay đổi cuộc đời bạn

by admin

 Duy nhất trên Trạm: Trích dẫn chương 1 cuốn sách “Bob – Chú mèo đường phố”

 

Dựa trên một câu chuyện có thật, ngay từ khi ra mắt, cuốn sách này đã trở thành một hiện tượng toàn cầu, lọt vào top bán chạy của tờ New York Times, đứng trong top bán chạy tại Anh 52 tuần liên tiếp và được xuất bản tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. James và Bob hiện đã có hơn 500 ngàn lượt follow trên Facebook. Cuốn sách đã được dịch sang tiếng Việt và do NXB Văn học cùng Mintbooks ấn hành.

 

Chương 1

Anh bạn đồng hành

Có một câu nói nổi tiếng tôi đã đọc được ở đâu đó. Rằng mỗi ngày trong đời, tất cả chúng ta đều được trao cơ hội thứ hai. Chúng vẫn ở đó để ta nắm lấy, chỉ là chúng ta thường bỏ qua chúng mà thôi.

Tôi đã sống một quãng dài trong đời mình chỉ để minh chứng cho câu nói đó. Tôi đã được trao cho rất nhiều cơ hội, đôi khi là hàng ngày. Một thời gian dài tôi đã không thể nắm lấy bất kì cơ hội nào trong số đó, nhưng rồi, đầu xuân năm 2007, điều đó cuối cùng cũng bắt đầu thay đổi. Đó là khi tôi kết bạn với Bob. Nhìn lại ngày đó, có điều gì đó mách bảo tôi rằng đấy cũng là một cơ hội mới với cậu chàng luôn.

Tôi gặp anh bạn đó lần đầu tiên vào một buổi tối tháng Ba, ngày thứ Năm ảm đạm. London vẫn chưa hoàn toàn rũ bỏ được mùa đông và đường phố hãy còn vương lại cái lạnh se sắt, nhất là mỗi khi những cơn gió thổi tới từ dòng sông Thames. Thậm chí bầu không khí đêm ấy còn thoáng chút sương giá, đó cũng là lí do tôi quay trở lại căn hộ tạm trú mới của mình tại Tottenham, mạn bắc London, sớm hơn một chút so với mọi khi sau một ngày đàn dạo quanh quận Covent Garden.

Như thường lệ, tôi mang hộp guitar đen và cái balo đeo trên lưng, nhưng đêm đó tôi còn có cô bạn thân Belle bên cạnh. Chúng tôi từng hẹn hò nhiều năm về trước nhưng giờ thì chỉ còn là bạn. Chúng tôi tính sẽ chén một phần cà ri mua mang đi rẻ tiền và xem một cuốn phim trên cái tivi đen trắng tôi đã xoay xở kiếm được từ một cửa hàng từ thiện ở góc phố.

Cũng như mọi khi, thang máy trong khu căn hộ không hoạt động nên chúng tôi bước tới dãy thang bộ đầu tiên, chấp nhận một cuốc leo bộ dài lên tới tầng năm.

Dải đèn dây nơi sảnh chính đã hỏng và một phần tầng trệt bị bưng kín trong bóng tối, tuy nhiên, khi lần đường tới cầu thang bộ tôi vẫn không thể không nhận ra một cặp mắt rực sáng lên trong màn đêm. Và khi nghe được một tiếng meo nhẹ, có phần rầu rĩ, tôi đã nhận ra.

Tiến lại gần hơn, dưới ánh sáng lờ mờ, tôi thấy một chú mèo mướp vàng cuộn mình trên tấm thảm ở bậc cửa trước của một trong số những căn hộ tầng trệt trên hành lang dẫn ra từ sảnh chính.

Tôi đã lớn lên bên cạnh lũ mèo và luôn hơi dễ mềm lòng với chúng. Khi tới gần hơn và nhìn cho rõ ràng, tôi có thể nói đó là một anh chàng, một chú mèo đực.

Tôi chưa từng nhìn thấy nó trong căn hộ trước đó, có điều ngay cả trong bóng tối tôi vẫn thấy được anh chàng này có gì đó đặc biệt, tôi có thể nói ngay rằng xem ra nó cũng có cá tính đấy. Cậu chàng không thể hiện chút căng thẳng nào, mà thực tế hoàn toàn ngược lại. Ở nó có một vẻ tự tin lặng lẽ và điềm tĩnh. Nó trông có vẻ hoàn toàn thoải mái dưới bóng tối này và dựa trên cái cách nó ghim vào tôi một cái nhìn kiên định, soi mói và khôn ngoan, chính tôi mới là kẻ đang đi lạc vào địa bàn của nó. Như thể cậu chàng đang nói: “Thế anh là ai và điều gì mang anh tới đây?”.

Tôi không thể kìm được mình ngồi xuống và tự giới thiệu.

“Xin chào, anh bạn. Tớ chưa gặp cậu bao giờ đấy, anh bạn sống ở đây hả?”, tôi nói.

Cậu chàng chỉ đơn giản nhìn lại tôi, vẫn với cái vẻ thận trọng pha chút lãnh đạm ấy, chừng như nó vẫn còn đang dò xét tôi.

Tôi quyết định vuốt ve cổ cậu chàng, phần để làm quen nhưng phần cũng để xem nó có đang đeo vòng cổ hay có một hình thức nhận dạng nào không. Không dễ thấy được gì trong bóng tối, nhưng tôi nhận ra không có gì ở đó cả, điều này lập tức gợi cho tôi rằng cậu chàng là mèo hoang. London đã có quá đủ cái hội này rồi.

Cu cậu xem chừng thích thú với sự quan tâm đó, và bắt đầu cọ mình nhè nhẹ vào tay tôi. Trong khi nựng cậu chàng thêm một lúc nữa, tôi nhận thấy lớp lông của nó đang trong tình trạng khá tệ, với những mảng lông rụng lởm chởm đây đó. Cậu chàng hẳn là cần một bữa ăn tử tế. Từ cái cách cậu chàng cọ mình vào tôi, có thể thấy nó còn cần tới một chút TLC  nữa.

“Tội nghiệp thằng bé, anh nghĩ nó là mèo hoang. Nó không đeo vòng cổ và còn gầy nhom nữa”, tôi nói, ngước lên nhìn Belle, cô ấy đang kiên nhẫn đứng đợi nơi chân cầu thang.

Cô ấy biết tôi rất dễ động lòng trước tụi mèo.

“Không, James à, anh không giữ nó được đâu”, cô ấy đáp, hất đầu về phía cánh cửa căn hộ mà anh bạn mèo đang nằm. “Nó không thể nào đi lang thang vào đây rồi nằm luôn đó được, nó rõ ràng là mèo nhà ai sống trong đó rồi. Chắc nó đang chờ họ về và cho nó vào nhà thôi.”

Tôi nghe lời cô ấy một cách bất đắc dĩ. Tôi chẳng thể nào cứ thế nhặt một chú mèo rồi mang nó về nhà mình được, dù rằng mọi dấu hiệu đều dẫn về chuyện là nó đang vô gia cư. Chính tôi cũng vừa mới dọn tới chỗ này và vẫn còn đang loay hoay sắp xếp căn hộ của mình. Nếu như cậu chàng đúng là của người đang sống trong căn hộ này thì sao? Họ sẽ không vui vẻ lắm với kẻ đã hớt đi thú cưng của nhà mình đâu, phải không?

Thứ nữa, điều cuối cùng tôi cần trong lúc này là phần trách nhiệm đối với một chú mèo. Tôi là một tay nhạc công thất bại đang phục hồi sau cai nghiện và sống một cuộc đời tay làm hàm nhai trong một căn hộ tạm trú. Chịu trách nhiệm với chính mình đã đủ vất rồi. 

Buổi sáng hôm sau, ngày thứ Sáu, tôi đi xuống dưới nhà để thấy anh chàng mèo mướp vàng vẫn đang ngồi đó. Dường như nó đã không hề dịch chuyển khỏi vị trí cũ trong suốt mười hai giờ qua hay khoảng chừng đó.

Một lần nữa tôi ngồi quỳ xuống trên một chân và gãi cổ cậu chàng. Một lần nữa thấy rõ ràng nó thích thế. Cu cậu rên rừ rừ, đón nhận tấm thịnh tình đang có được. Nó vẫn chưa thể tin tưởng được tôi trăm phần trăm. Nhưng tôi cảm thấy nó cho là tôi cũng ok đấy.

Trong ánh sáng ban ngày, tôi có thể thấy cu cậu là một tạo vật đẹp đẽ. Cậu chàng có một gương mặt thực sự sắc nét với đôi mắt xanh dài, dù rằng, nhìn kĩ hơn, nó hẳn đã bập vào một cuộc ẩu đả hay một tai nạn gì đó bởi lẽ cu cậu có những vết sẹo trên mặt và chân. Đúng như tôi đã đoán đêm trước, bộ lông cu cậu rõ thảm hại. Cậu chàng cực kì gầy và tả tơi nhiều chỗ với ít nhất nửa tá những mảng trụi lông lộ rõ cả da. Giờ thì tôi thực sự cảm thấy đáng lo ngại cho cu cậu, nhưng một lần nữa tôi lại tự nhủ mình đã có quá đủ những thứ để lo với việc chấn chỉnh bản thân mình rồi. Vậy là, hơn cả một chút miễn cưỡng, tôi vòng ra bắt xe bus từ Tottenham tới trung tâm London và Covent Garden, nơi tôi sẽ cố lần nữa kiếm thêm chút tiền hát dạo.

Đã rất muộn khi tôi quay trở về vào đêm đó, cũng gần mười giờ. Tôi lập tức tìm đến dãy hành lang nơi mình đã gặp anh chàng mèo mướp, nhưng giờ thì không còn dấu hiệu nào của nó nữa. Một phần trong tôi cảm thấy thất vọng. Tôi đã phần nào như là yêu quý cu cậu rồi. Nhưng hầu như tôi nghe lòng nhẹ nhõm. Tôi kết luận nó hẳn đã được chủ cho vào nhà khi họ trở về từ bất kì nơi nào trước đó.

Tim tôi rớt xuống một chút khi tôi đi xuống ngày hôm sau và thấy cậu chàng đã trở lại vị trí cũ. Giờ đây trông nó có phần yếu ớt và tơi tả hơn trước nữa. Cu cậu có vẻ lạnh, đói và còn hơi run rẩy.

“Vẫn ở đây hả?”, tôi nói, vuốt ve cu cậu. “Hôm nay trông mày không khỏe lắm nhỉ?”

Tôi quyết định rằng tình trạng này kéo dài thế đủ rồi.

Thế là tôi tới gõ cửa căn hộ đó. Tôi nghĩ mình phải nói gì đó. Nếu như nó là mèo nhà họ, đây rõ ràng không phải là cách chăm sóc mèo. Nó cần gì đó để ăn và uống – và có thể là một vài sự chăm sóc y tế nữa.

Một người đàn ông xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Anh ta để râu, mặc áo thun, quần thể thao và trông như thể đang ngủ mặc dù khi đó đang là giữa chiều.

“Xin lỗi đã làm phiền anh, anh bạn. Đây có phải mèo nhà anh không?”, tôi hỏi.

Trong một giây anh ta nhìn tôi như thể tôi đang có tí khùng.

“Mèo nào?”, anh ta đáp, trước khi nhìn xuống và thấy bạn mèo mướp vàng đang cuộn tròn như trái banh trên thảm cửa.

“À. Không”, anh ta nói, với một cái nhún vai thờ ơ, “Không liên quan đến tôi, bạn à!”

“Nó đã ở đây mấy hôm rồi”, tôi nói, và một lần nữa lại nhận về một cái nhìn trống rỗng.

“Thế à? Chắc đánh hơi thấy mùi xào nấu gì đó đây. Chà, tôi nói rồi, chẳng liên quan gì đến tôi cả.”

Rồi anh ta đóng sầm cửa lại.

Tôi quyết định ngay tức khắc.

“Rồi, nào, anh bạn, đi với tớ”, tôi nói, lục tìm trong balo một hộp bánh quy mà tôi mang theo, đặc biệt dành riêng để chia cho đám chó mèo lâu lâu vẫn lại gần khi tôi chơi nhạc.

Tôi lắc lắc cái hộp trước mặt cậu chàng và nó lập tức bật dậy bằng cả bốn chân và đi theo tôi.

Tôi có thể thấy cu cậu có chút khó khăn khi đứng lên và phải kéo lê một chân sau một cách kì cục, vậy nên chúng tôi cứ chậm rãi leo lên năm lượt cầu thang. Vài phút sau, chúng tôi đã yên ổn náu mình trong căn hộ của tôi.

Căn hộ của tôi tả tơi trơ trọi, phải nói là vậy. Bên cạnh cái tivi, tất cả những gì tôi có ở đây chỉ là một cái giường sofa second-hand, một tấm nệm ở góc gian phòng ngủ bé xíu, và trong gian bếp là một cái tủ lạnh ẩm ương, một lò vi sóng, một ấm đun nước và một máy nướng bánh mì. Không bếp. Những thứ còn lại trong căn hộ là đống sách, băng đĩa và mấy đồ lặt vặt của tôi.

Tôi có hơi giống loài chim ác là; ưa nhặt nhạnh đủ thứ tìm thấy trên đường phố. Khi ấy tôi đang chứa chấp một cái đồng hồ tính giờ đậu xe đã hỏng ở một góc phòng, và một con ma-nơ-canh bỏ đi với chiếc mũ cao bồi trên đầu ở một góc khác. Một người bạn từng gọi chỗ ở của tôi là “cửa tiệm đồ cổ”, nhưng trong khi khám phá môi trường mới thứ duy nhất khiến anh bạn mèo thích thú lại là gian bếp.

Tôi “trục vớt” được ít sữa trong tủ lạnh, trút ra một cái chảo và pha với chút nước. Tôi biết – trái với suy nghĩ thường tình – rằng sữa có thể gây hại cho tụi mèo bởi lẽ, thực ra, chúng không dung nạp được lactose. Cậu chàng liếm sạch trong vài giây.

Tôi còn một ít cá ngừ trong tủ lạnh, thế là tôi trộn cá với ít bánh quy nghiền và mang cho cu cậu luôn. Một lần nữa, cu cậu nghiến ngấu sạch phần ăn. Khổ thân, nó chắc phải đói dữ lắm, tôi nghĩ thầm.

Trải qua cái lạnh lẽo, tối tăm của dãy hành lang, căn hộ này rõ như là khách sạn năm sao đối với anh bạn mèo. Cu cậu tỏ vẻ rất khoan khoái khi được ở đây và sau khi ăn uống no nê trong gian bếp, nó luồn ra phòng khách rồi nằm cuộn tròn trên sàn, bên cạnh lò sưởi điện.

Trong khi ngồi đó và quan sát cậu chàng kĩ hơn, tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng chân của nó đang có vấn đề. Thật vậy, khi ngồi xuống trên sàn bên cạnh cu cậu và bắt đầu thăm khám, tôi tìm thấy một khối mủ lớn nơi bắp chân sau bên phải. Vết thương cỡ một hàm răng nanh lớn, điều này giúp tôi hình dung được lí do cu cậu có nó. Cậu chàng hẳn đã bị một con chó, hoặc có thể là cáo, tấn công, con vật đã táp răng vào chân cu cậu và giữ lấy trong khi nó cố gắng chạy trốn. Cu cậu cũng có rất nhiều vết sẹo, một trên mặt không xa vùng mắt và nhiều vết khác trên lưng và chân.

Tôi cố khử trùng vết thương tốt nhất có thể bằng cách đặt cu cậu vào trong bồn tắm rồi tra một chút chất giữ ẩm không cồn xung quanh và một chút vaseline lên vết thương. Nhiều anh bạn mèo sẽ cắn phá loạn lên nếu tôi cố gắng làm thế nhưng anh bạn này thì nằm im như thóc vậy.

Cu cậu dành phần lớn thời gian còn lại trong ngày để nằm cuộn tròn tại nơi giờ đã là vị trí ưa thích của nó, bên cạnh lò sưởi điện. Tuy nhiên nó cũng mò quanh căn hộ một chút khi này khi khác, nhảy nhót và cào lên bất cứ thứ gì nó tìm thấy. Mặc dù lúc trước đã phớt lờ món này, nhưng giờ đây cu cậu lại bắt đầu coi con ma-nơ-canh trong góc phòng như một thỏi nam châm. Tôi thì không phiền. Cậu chàng có thể làm gì với món đó tùy thích.

Tôi vẫn biết các anh bạn mèo mướp vàng thường cực kì hiếu động và có thể thấy anh bạn này hãy còn quá nhiều năng lượng dự trữ. Khi tôi tới vuốt ve cậu chàng, nó nhảy dựng lên và bắt đầu đập tay với tôi. Tới một lúc thì cậu chàng đâm ra tăng động, cào cấu loạn xạ và suýt nữa làm xước tay tôi.

“Rồi rồi, anh bạn, bình tĩnh nào”, tôi nói, nhấc cu cậu xuống khỏi người mình và đặt nó xuống sàn. Tôi biết rằng tụi mèo đực đang lớn mà chưa triệt sản có thể trở nên cực kì tăng động. Tôi đồ rằng anh bạn này hãy “còn nguyên” và đang ở tuổi động dục. Tôi cũng không chắc được, dĩ nhiên, nhưng điều này một lần nữa nhấn mạnh cái cảm giác day dứt rằng nó hẳn phải đến từ đường phố thay vì từ một ngôi nhà nào đó.

Tôi dành cả buổi tối ngồi xem tivi, anh bạn mèo cuộn tròn bên lò sưởi, ra chiều thỏa mãn khi được ở đó. Cu cậu chỉ di chuyển khi tôi đi ngủ, tự nhấc mình lên và đi theo tôi vào phòng ngủ, nơi cu cậu thu mình thành một trái banh nơi mép giường bên chân tôi.

Khi lắng nghe tiếng rừ rừ của cậu chàng trong bóng tối, tôi cảm thấy mừng khi có nó ở đây. Cu cậu là một người bạn, tôi nghĩ. Dạo gần đây tôi đang không có mấy những người như vậy.

Buổi sáng Chủ nhật, tôi thức dậy khá sớm và quyết định sẽ xuống phố để coi có tìm được chủ nhân của cu cậu không. Tôi cho là ai đó có thể đã dán lên những tờ thông báo “Tìm mèo lạc” chăng. Gần như luôn luôn có những tờ thông báo tìm mèo được photocopy dán trên những cột đèn, những bảng thông tin hay trạm chờ xe bus quanh đây. Nhiều mèo lạc đến nỗi lắm khi tôi tự hỏi liệu có phải đang có một băng bắt cóc mèo đang hoạt động trong vùng hay không.

Phòng trường hợp nhanh chóng tìm ra chủ nhân, tôi mang anh bạn mèo theo mình, cột nó vào một sợi dây tôi chế từ dây giày để giữ nó được an toàn. Cu cậu tỏ vẻ vui thích khi đi cạnh tôi lúc chúng tôi đi thang bộ xuống tới tầng trệt.

Ra tới bên ngoài khu căn hộ, anh bạn mèo bắt đầu kéo giật đầu dây như thể muốn chạy đi. Tôi đoán rằng nó muốn đi xử lí vụ kia. Quả vậy, cu cậu tót vào bên trong một lùm cây bụi bên cạnh một tòa nhà gần đấy và biến mất trong một, hai phút gì đó tuân theo tiếng gọi của tự nhiên. Xong xuôi nó quay lại chỗ tôi và ngoan ngoãn luồn trở lại vòng dây.

Nó hẳn phải rất tin tưởng mình, tôi nhủ thầm. Tôi ngay lập tức cảm thấy mình cần phải đền đáp niềm tin ấy và cố gắng giúp đỡ anh bạn này.

Điểm đến đầu tiên của tôi là một người phụ nữ sống bên kia đường. Bà được biết đến trong vùng là người hay chăm nom mèo. Bà cho tụi mèo hoang quanh đó ăn và triệt sản chúng, nếu cần. Khi bà ra mở cửa, tôi thấy ít nhất năm chú mèo đang ở trong nhà. Có trời mới biết bà còn bao nhiêu bạn mèo nữa ở sau nhà. Dường như toàn bộ mèo trong vòng vài dặm đã tụ về sân sau nhà bà vì biết rằng đó là nơi tuyệt nhất để xin ít đồ ăn. Tôi chẳng hiểu làm sao bà có thể lo liệu tiền nong cho hết cả đám đó ăn được.

Bà nhìn anh bạn mèo và tỏ ra thích nó ngay tức thì, khoản đãi cu cậu luôn một bữa.

Đó là một quý bà dễ mến nhưng bà cũng không biết cậu chàng từ đâu tới. Bà chưa từng gặp nó quanh đây.

“Cô đoán nó từ mạn nào đó khác ở London tới. Không ngạc nhiên nếu nó bị đá ra đường đâu”, bà nói. Bà bảo sẽ để ý nghe ngóng phòng khi nghe được gì đó.

Tôi có cảm giác bà đã đúng về việc anh bạn này tới từ đâu đó xa khỏi Tottenham.

Tò mò, tôi tháo vòng cho anh bạn mèo để coi nó có biết phải đi về hướng nào không. Nhưng rồi trong khi đi trên phố, nó rõ ràng là chẳng biết mình đang ở đâu. Cu cậu có thể bị lạc hoàn toàn. Nó nhìn tôi như muốn nói: “Tôi chẳng biết đâu vào đâu cả; tôi muốn ở chỗ anh kia”.

Chúng tôi ở ngoài trong vài giờ. Tới một lúc cu cậu lại vọt vào trong một bụi cây để làm vụ kia, để mặc tôi đứng hỏi han mọi người qua đường xem họ có nhận ra nó không. Tất cả những gì tôi nhận được là những cái nhìn và những cái nhún vai trống rỗng.

Rõ ràng cu cậu không muốn rời tôi. Trong khi chúng tôi lang thang loanh quanh, tôi không thể ngăn mình nghĩ về câu chuyện của cậu chàng: nó tới từ đâu và đã sống cuộc đời thế nào trước khi tới ngồi trên tấm thảm tầng dưới như vậy.

Một phần trong tôi tin rằng “quý bà chăn mèo” nhà bên đường đã đúng và cậu chàng vốn là mèo nhà. Nó là một con mèo đẹp và có thể đã được mua làm quà Giáng sinh hay quà sinh nhật ai đó. Mèo mướp vàng hơi dễ bị kích động và có thể tệ hơn nếu không được triệt sản, như tôi đã thấy đó. Chúng có thể trở nên rất độc tài, hơn nhiều những giống mèo khác. Phỏng đoán của tôi ấy là khi nó đâm ra hung dữ và nghịch ngợm thì nó cũng đồng thời trở nên quá thể đáng không đỡ nổi.

Tôi hình dung cảnh các vị phụ huynh phán “đủ rồi đấy” và – thay vì mang nó tới trạm cứu hộ hay RSPCA  – lại tống nó vào sau xe hơi, lái xe đưa nó đi rồi quẳng nó xuống phố hay lên lề đường.

Loài mèo có khả năng định hướng rất tốt, nhưng cậu chàng rõ ràng đã bị thả đi quá xa khỏi nhà và chưa thể quay về. Hoặc giả nó đã rút ra rằng nơi đó chẳng phải một mái nhà đúng nghĩa và quyết định sẽ tìm một nơi chốn mới.

Một giả thuyết khác của tôi là nó thuộc về một người già đã qua đời.

Hẳn nhiên, cũng có thể câu chuyện lại chẳng giống thế chút nào. Vấn đề rằng cậu chàng đã không được dạy dỗ vụ vệ sinh là luận điểm chính chống lại ý kiến rằng nó đã được chăm sóc trong gia đình. Nhưng càng biết thêm về cậu chàng, tôi càng tin rằng nó chắc chắn đã quen với việc ở bên cạnh một người nào đó. Cu cậu có vẻ sẽ bám dính lấy người nào mà nó cho là sẽ chăm sóc mình. Đó là điều nó đã làm với tôi.

Manh mối bự nhất về quá khứ cậu chàng là vết thương của nó, vết thương trông thật dơ hầy. Rõ ràng là cậu chàng đã lãnh vết thương này trong một cuộc ẩu đả. Dựa vào cái kiểu chảy mủ này, vết thương hẳn đã được vài ngày, thậm chí là một tuần. Điều này lại gợi trong tôi một khả năng khác nữa.

London luôn luôn có rất nhiều mèo giang hồ, đám mèo hoang lang thang trên đường phố sinh tồn bằng thức ăn thừa và mối sẻ chia từ người lạ. Hồi năm hay sáu trăm năm trước, những chốn như phố Gresham, Clerkenwell Green hay đường Drury từng được biết đến như là những “phố mèo” và luôn luôn quá tải lũ mèo. Đám mèo hoang phiêu dạt trong thành phố, nhộn nhạo đấu tranh sinh tồn từng ngày. Rất nhiều trong số đó giống với anh bạn mèo mướp vàng này: những sinh vật rã rời, tả tơi.

Có lẽ nó đã tìm thấy nơi tôi một tâm hồn đồng cảm.

Trạm Đọc (Read Station)

Theo Mintbooks

You may also like

Leave a Comment