Duy trì tốc độ giảm nghèo bền vững từ 1-1,5%
Theo đó, Đảng và Nhà nước ta xác định công tác giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, quan trọng, nhất quán, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
Những năm qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng luôn quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, cùng với sự tham gia tích cực cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn dân, công tác giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật.
Đầu tiên phải kể đến hệ thống chính sách, pháp luật về giảm nghèo được ban hành khá đồng bộ, toàn diện; ngân sách nhà nước và nguồn lực huy động từ xã hội đầu tư cho công tác giảm nghèo ngày càng tăng; nhận thức, ý chí vươn lên của người nghèo tăng cao, có nhiều tấm gương điển hình nỗ lực vươn lên thoát nghèo. Hàng chục triệu hộ nghèo đã thoát nghèo, nhiều hộ có cuộc sống trung bình, khá giả, nhiều địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn, một số địa bàn đạt chuẩn nông thôn mới.
Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Nếu năm 1993 tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%, đến năm 2020 chỉ còn 2,75%. Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xoá đói, giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới. Kết quả trên có ý nghĩa rất to lớn, khẳng định ý chí, quyết tâm cao của toàn Đảng.công cuộc xoá đói, giảm nghèo, toàn dân ta đã hiện được tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của mình. Bên cạnh những thành tựu đạt được, kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao; chênh lệch mức sống, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, giải quyết việc làm giữa các địa phương, vùng, miền, nhóm dân cư chưa được thu hẹp nhiều; một số nơi tỉ lệ hộ nghèo còn cao, đời sống còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, bãi ngang ven biển và hải đảo. Cấp uỷ đảng, chính quyền cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác giảm nghèo; lãnh đạo, chỉ đạo cần có lúc, có nơi chưa quyết liệt, kịp thời, hiệu quả quản lý nhà nước có mặt còn hạn chế.
Tai, quá trình đổ thừa hóa nhanh, chất lượng nguồn nhân lực thấp; đặc biệt, tác động của dịch bệnh Covid-19 tiếp tục là những thách thức lớn đối với công tác giảm nghèo bền vững…
5 nhiệm vụ được chỉ ra trong công tác giảm nghèo bền vững tới năm 2023
Để thực hiện mục tiêu duy trì tốc độ giảm nghèo từ 1- 1,5%, Ban Bí thư đã ra một số nhiệm vụ thực hiện.
Đầu tiên là yêu cầu tổ chức định hướng, chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững. Bên cạnh đó, đây mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong công tác giảm nghèo; phát huy mạnh mẽ truyền thống đoàn kết, tinh thần “tụng thân, tụng ái” của dân tộc ta đối với người nghèo.
Để thực hiện thành lập mục tiêu giảm nghèo bền vững, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề phải giảm tỷ lệ nghèo đa chiều từ 1 – 1,5%/năm. Phần đầu đến năm 2030, cụ bản không còn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn.
Đội mỗi, đây mạnh, nâng cao chất lượng phong trào thi đua “Cộng nước chung tay vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau”, khởi dạy ý chí tự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ đồng hành, hướng dẫn người nghèo, hộ nghèo có kiến thức, kinh nghiệm trong lao động, sản xuất, chủ động vượt lên thoát nghèo, không trông chờ, để lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.
#7921; Lực, tự cường, phát huy nội lực vươn lên “thoát nghèo, xây dựng cuộc sống ấm no” của người dân và cộng đồng, phấn đấu “Vì một Việt Nam không còn đói nghèo”. Thứ 2, tiếp tục hoàn thiện chính sách giảm nghèo, chuẩn nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân… Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã liên kết trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, phát triển đa dạng các mô hình sản xuất có sự tham gia của các hộ nghèo, cận nghèo; hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với người nghèo, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi. Thứ 3, đẩy mạnh thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội liên vùng, tăng cường kết nối vùng đã phát triển với vùng khó khăn; có chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ở những địa bàn khó khăn, gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, tổ chức thực hiện di dời dân cư, bảo đảm sinh kế bằn vững.#7873;n vững và an toàn cho dân cư tại các vùng thường xuyên chịu tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu, khu vực rừng đặc dụng. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc quan tâm giải quyết đất sản xuất, đất ở phù hợp, tạo việc làm, bảo đảm các dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường, thông tin và dịch vụ xã hội khác cho người nghèo, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ưu tiên huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo. Nhà nước sẽ tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan điều phối về giảm nghèo các cấp theo hướng tập trung, thống nhất đầu mối quản lý.Hướng dẫn các xã, phường, thị trấn xây dựng mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ tự quản, hộ gia đình thoát nghèo, sản xuất giỏi, làm kinh tế giỏi tiêu biểu. Để thực hiện công tác giảm nghèo, cần phải xây dựng hợp giữa các cấp, các ngành với chính sách khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, nhiệt tình về công tác tại vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Xây dựng cơ sở dữ liệu về giảm nghèo, tăng cường cung cấp thông tin, giúp người nghèo kết nối với thị trường lao động, thị trường hàng hoá… Khuyến khích các doanh nghiệp giúp đỡ các huyện nghèo, xã nghèo; vận động các hộ khá giả giúp đỡ hộ nghèo; xây dựng, nhân rộng các mô hình tốt, sáng kiến hay về giảm nghèo bền vững. Chỉ thị yêu cầu địa phương nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng nội dung Chỉ thị tới cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Chỉ thị; nghiên cứu ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả nghị quyết của cấp uỷ về giảm nghèo bền vững. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, khen thưởng, biểu dương đối với những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc; xem xét trách nhiệm đối với cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật về giảm nghèo.
Trong Quyết định 4037/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nhằm đạt được mục tiêu giảm nghèo bền vững theo Chỉ thị 05 của Ban bí thư đến năm 2030, Chính phủ đã ban hành Chương trình Chống nghèo bền vững để phục hồi vật chất của địa phương nghèo, đảm bảo an toàn đối với người nghèo và khu vực nghèo, vào ngày 20/05/2018. Chương trình này được áp dụng từ năm 2018 đến năm 2024, là cơ sở và trọng tâm của Chính sách Phát triển đối với nghèo và khu vực nghèo từ năm 2018 đến năm 2030, có tổng vốn chi phí lên đến 74.700 tỉ đồng.
Theo Chương trình, Chính phủ sẽ tăng cường công tác giảm nghèo bền vững theo Chỉ thị 05 của Ban bí thư đến năm 2030, không chỉ nhằm đạt được mục tiêu nghèo sâu nhất, mà còn thúc đẩy những giao thoa nền kinh tế cải cách, bền vững, cân bằng và sự phát triển bền vững của Việt Nam. Cấu trúc tổ chức và chiến lược của Chương trình là tính hợp tác và cộng tác, trong đó quan trọng nhất là cần tập trung vào công tác phòng chống thiên tai, hỗ trợ trợ cấp ngắn hạn, cải thiện sinh kế và tiêu thụ trong các quận huyện nằm trong khu vực nghèo, đặc biệt là khu vực nghèo đặc khu, với những kế hoạch dài hạn, kiên trì và có tính trách nhiệm cao.
Từ nay đến năm 2030, các cơ quan chức năng cũng như cộng đồng sẽ chung tay phối hợp tăng cường công tác giảm nghèo bền vững trên toàn quốc, nâng cao năng lực xây dựng và quản lý chính sách ngân sách, để đạt được mục tiêu giảm nghèo bền vững theo Chỉ thị 05 của Ban bí thư đến năm 2030.