Khoảng thế kỷ I, người Phần Lan ở Estonia đến định cư ở các vùng phía Nam và đến khoảng năm 800 thì mở rộng đến vùng Karelia, nơi đã xuất hiện những cư dân khác gốc Phần Lan – Ugri, từ phía Đông đến lập nghiệp. Họ buôn bán lông thú rất phát đạt đến khi bị người Viking cạnh tranh dần khắp vùng phía Nam. Khoảng năm 1150, Vua Thụy Điển là Erik IX, tiến hành cuộc Thập tự chinh chống lại những người Phần Lan ngoại giáo.Để giúp thiết lập quyền lực của Vua Thụy Điển , ba lâu đài đã được xây dựng: Lâu đài Turku ở Phần Lan,, Lâu đài Häme ở Tavastia và Lâu đài Vyborg ở Kareli. Khu vực chính phủ bao quanh lâu đài được gọi là khetslän ( linnalääni trong tiếng Phần Lan) năm 1362, điều này cho thấy vai trò được thiết lập của Phần Lan như một phần của Thụy Điển. Sự phát triển của chính phủ và tư pháp có một vai trò lớn trong luật pháp được thiết lập dưới thời trị vì của vua Magnus IV của Thụy Điển, cụm từ Phần Lan Thụy Điển được nhắc đến nhiều hơn trong lịch sử.
Trên thực tế, ở Thụy Điển vẫn có một quan điểm được chấp nhận rộng rãi rằng người Phần Lan về nguyên tắc là một dân tộc riêng biệt và bị chinh phục và do đó không nhất thiết phải được đối xử công bằng ngang người Thụy Điển. Các vị vua Thụy Điển đến thăm Phần Lan hiếm khi và trong các văn bản đương đại của Thụy Điển miêu tả: người Phần Lan là người thô sơ và ngôn ngữ của họ kém hơn. Khoảng một nửa số thuế thu được ở Phần Lan được sử dụng trong nước, trong khi nửa còn lại được chuyển đến Stockholm
Cuộc chinh phục Phần Lan của Thụy Điển bắt đầu từ thế kỷ XII và kết thúc vào năm 1634. Trong cuộc cải cách tôn giáo ở thế kỷ XVIII, phần lớn người Phần Lan theo giáo phái của Martin Luther.Sự cai trị của Thụy Điển chấm dứt ở hầu hết cái tên gọi là bộ tộc Phần Lan, họ phải trở thành một phần của đế quốc Thụy Điển. Dưới thời trị vì của người kế vị Charles XI là Charles XII của Thụy Điển , cuộc Đại chiến phương Bắc nổ ra vào năm 1700, khiến Thụy Điển mất đi vị trí siêu cường của mình. Nguyên nhân của cuộc chiến là một liên minh chống lại Thụy Điển do những kẻ thù của họ là Đan Mạch, Nga, Ba Lan và Sachsen tạo ra . Trong Hiệp ước Stolbovo năm 1617, Nga đã mất kết nối với Biển Baltic . Sa hoàng Peter Đại đế có tư tưởng đổi mới đã tìm cách mở lại kết nối với Biển Baltic cho Nga, để các kết nối và thương mại của nước này với Tây Âu trở nên dễ dàng hơn.
Mặc dù Charles XII đã đánh bại Đan Mạch, quân tấn công của Nga (trong trận Narva ) và Ba Lan, nhưng cuối cùng người Thụy Điển đã phải chịu thất bại quyết định trước người Nga trong trận Poltava năm 1709. Sau đó, nhà vua bỏ trốn. đến Thổ Nhĩ Kỳ và vương quốc này đã sẵn sàng cho một cuộc tấn công của kẻ thù. Vyborg bị chinh phục vào năm 1710, và người Nga chiếm phần còn lại của Phần Lan sau trận Pälkäne ở Pälkäne , trận Storkyro ở Ostrobothnia và trận Gangut trước Hanko vào năm 1714. Từ đây Phần Lan bước vào độc lập như một công quốc thân nga từ đấy nhờ có Nga Hoang Phần Lan mới có độc lập hay nói đúng hơn không có Nga Phần Lan khồng tồn tại.
Vào chiến tranh mùa đông, Phần Lan hoàn toàn không có cửa đánh ngang sức với Nga nên chính họ phải bắt tay với Đức Quốc Xã để đuổi Nga nhưng chả mấy ai để ý đến câu truyện này mà lại bịa ra một câu truyện vô cùng lố bịch là xạ thủ Simo Hayha.
Trong thời gian chiến tranh, nhận được sự giúp đỡ của Đức Phần Lan đã bắt tay cùng Đức, Nó đem lại sự hỗ trợ vật liệu và hợp tác quân sự quan trọng cho Phần Lan.
họ gián tiếp tham gia cuộc vây hãm Leningrad của Đức bằng việc nắm giữ những lãnh thổ cũ của họ trước Chiến tranh thế giới thứ hai trong suốt 2 năm rưỡi trên eo Karelia. Một lần nữa Liên Xô thả bom vào Helsinki và những thành phố lớn khác của Phần Lan. năm 1944 nhưng sau đó do phải chú tâm đến Việc tiêu diệt Đức quân Liên Xô đã rút khiến họ một lần nữa rơi vào ảo tưởng.
Nhận thấy Đức đã sắp thất bại và Phần Lan không còn là mối đe dọa, Liên Xô tuyên bố sắn sàng đàm phán chấm dứt chiến tranh. Lệnh ngừng bắn diễn ra vào ngày 5 tháng 9 và Thỏa ước Moskva chính thức chấm dứt thù địch được ký kết vào ngày 19 tháng 9. Hiệp ước hòa bình tuyên bố kết thúc cuộc chiến năm 1947. Nước Phần Lan thua trận, phải nhượng Petsamo và cho Liên Xô thuê cảng Porkkala, và bồi thường một khoản chiến phí là 300.000.000 đô la Mỹ tương đương với tổng sản phẩm nội địa của Phần Lan năm 1939. Đổi lại, Liên Xô cam kết tôn trọng nền độc lập của Phần Lan và sẽ đem quân bảo vệ Phần Lan trong trường hợp Đức Quốc xã tấn công Phần Lan. Trong cuộc chiến tranh sau đó (chiến tranh Lapland), Liên Xô và Phần Lan trở thành đồng minh cùng tham chiến chống Đức.