Có những sai sót trong sách vật lý cơ học. Lý thuyết dạy một đằng nhưng trên thực nghiệm ra kết quả một nẻo”. Suốt 46 năm, anh công nhân Nguyễn Văn Thường đã đi qua nhiều viện nghiên cứu, trung tâm khoa học để bảo vệ lý thuyết mới của mình. Cuối cùng, lý thuyết này cũng đã được in vào sách Vật lý 10 dạy riêng cho học sinh giỏi Việt Nam. Thậm chí, giới khoa học hiện đang tranh luận liệu phát hiện của ông có khiến vật lý cơ học của nước ta đi trước thế giới?
Ngày 31/3, tại Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, báo Khoa học & đời sống đã tổ chức cuộc tọa đàm “Vật lý cơ học của Việt Nam có đi trước thế giới?”. Đây là cuộc tọa đàm nhằm làm rõ những phát hiện của ông Nguyễn Văn Thường (Hội Vật lý Việt Nam) xung quanh lý thuyết cơ học.
I. ANH CÔNG NHÂN ĐAM MÊ KHOA HỌC
Ông Nguyễn Văn Thường trước kia là một công nhân Nhà máy Dệt len Mùa Đông (Hà Nội). Năm 1965, ông được cử đi học ĐH Bách khoa với mục đích sau này trở về theo dõi phần kỹ thuật của nhà máy.
Sẵn niềm đam mê nghiên cứu khoa học và được đào tạo nghiên cứu chuyên sâu ở bậc đại học, ông Thường nhận thấy giữa hoạt động thực tế của máy móc tại đơn vị mình với lý thuyết cơ học được dạy ở trường trái ngược nhau nên quyết khám phá.
Không bằng lòng với cách giải thích trên lớp của thầy, Thường bắt tay vào những thực nghiệm của minh và phát hiện nhiều điều quan trọng. “Ví dụ, trong nhà máy có cơ cấu “biên maniven”, khi góc anpha tăng lên thì lực dọc biên giảm dần; vậy mà sách dạy góc anpha tăng lên, lực dọc biên lại tăng dần – hai kết quả trái ngược nhau hoàn toàn. Thêm nữa, khi góc anpha tăng, lực dọc biên giảm đến 0, trong khi giáo trình lại dạy tăng tới vô cùng. Tôi nhận thấy nếu tính toán như vậy máy sẽ không thể hoạt động được” – ông Thường nhớ lại.
Theo ông Thường, ngay cả trong xây dựng nhà cửa, cầu cống, khi góc anpha giảm tới 0, lực kéo nén các thanh sẽ tiến tới 0, bù lại lực uốn tiến đến cực đại bằng P, trong khi giáo trình lại dạy rằng lực kéo nén tiến đến vô cùng và không có uốn. “Đây là một trong những nguyên nhân chính gây đến sập đổ cầu cống, nhà cửa mà không tìm ra nguyên nhân” – ông Thường khẳng định.
Rất nhiều công trình khi xảy ra tai nạn người ta không rõ nguyên nhân vì đã tính toán rất chuẩn theo lý thuyết nhưng dựa vào lý thuyết của tôi thì lý giải được ngay: đó là do lực uốn chúng ta đã bỏ qua, không tính đến. Ngược lại, những công trình còn đứng vững là do ta áp dụng hệ số an toàn cao (bằng 2,5 – có nghĩa đáng xây một cây cầu thì đã thành xây 2 cầu nên không sụp đổ nhưng lại tốn kém).
II. CÔ ĐỘC NGHIÊN CỨU
Không có trong biên chế của bất kỳ viện khoa học nào, ông Thường bắt đầu con đường nghiên cứu của mình một cách cô độc. Thậm chí, ông còn chịu áp lực nặng nề, phán xét của nhiều người. Phát hiện của một công nhân bình thường không phải lúc nào cũng thuyết phục được các nhà khoa học.
Những ngày đầu đưa ra nghiên cứu của mình, ông Thường bị phản ứng dữ dội vì “sách bao giờ cũng đúng”. Tuy nhiên, càng bị phản ứng bao nhiêu, ông lại càng “lì” bấy nhiêu. Cẩn trọng tiến hành từng thực nghiệm để chứng minh lý thuyết của mình là đúng vì ông Thường cho rằng “có khi tài liệu của mình hơi sốc hoặc các nhà khoa học không có điều kiện thực nghiệm nên phải chứng minh cho họ”. Mỗi khi gặp trở ngại, ông lại nhớ lời dặn dò của GS Lê Nhật Thăng, lúc đó là Cục trưởng Cục Đo lường Quân đội: “Dù khó khăn thế nào, tớ ra lệnh cho cậu không được bỏ cuộc. Càng bị phản đối càng phải kiên trì đấu tranh”.
Ông Thường được mời đến Trường ĐH Tổng hợp, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội làm việc nhiều buổi nhưng lúc ấy, không nhà khoa học nào khẳng định nghiên cứu của ông là đúng. Trong các cuộc hội thảo sau này, các nhà khoa học cũng không đưa ra được lý thuyết nào để bác bỏ tài liệu cũng như thực nghiệm của ông Thường nhưng không ai công nhận ông đúng. Cho đến tận sau này, khi được làm việc với GS Nguyễn Văn Hiệu và các nhà khoa học của Bộ GD-ĐT như GS Vũ Quang, GS Tô Giang, GS Dương Trọng Bái…, những phát hiện của ông mới chính thức được công nhận.
Cụ Ngụy Như Kon Tum, nguyên hiệu trưởng Trường ĐH Tổng hợp (nay là ĐH Quốc gia Hà Nội), sau khi nghe ông Thường trình bày những nghiên cứu của mình đã thốt lên: “Hay quá!”. Rồi cụ đích thân đạp xe đến chỗ GS Nguyễn Văn Hiệu để giới thiệu và tổ chức hội thảo cho ông Thường.
III. TÌM CÁI SAI TRONG QUAN NIỆM CŨ
Thắng lợi lớn đầu tiên của ông Thường là các bài tập minh họa trong sách giáo khoa Vật lý 8 (hệ 10 năm) đã được Bộ Giáo dục (nay là Bộ GD-ĐT) loại bỏ, thay bằng một loạt bài toán mới trong sách Vật lý 10 phổ thông (hệ 12 năm).
GS Tô Giang, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã chủ biên cuốn sách vật lý dạy cho học sinh giỏi lớp 10, thông báo cho ông Thường: Ý tưởng về nguyên lý độc lập, một trong những nguyên lý quan trọng nhất trong tài liệu của ông, đã được in vào sách Bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý THPT Cơ học 1 để giảng dạy trên cả nước.
Ông Thường hào hứng cho rằng cách giải mới theo nguyên lý độc lập mà GS Tô Giang biên soạn sẽ làm hàng vạn bài toán phải được giảng giải lại với kết quả ngược nhau 180 độ. Chẳng hạn, với bài toán “biên maniven”, lực dọc biên F = P.cos (anpha), trong khi nếu giải theo sách phổ thông và ĐH hiện nay thì F = P/cos (anpha) nhưng công thức P.cos (anpha) lại được thực nghiệm chứng minh là đúng. “Đây cũng chính là một trong các bài toán được tôi phát hiện qua thực nghiệm tại Nhà máy Dệt len Mùa Đông” – ông Thường tiết lộ.
Nhìn vào kết quả mấy chục năm nghiên cứu của ông Thường, GS Tô Giang thốt lên: “Tôi phục ông Thường ở chỗ ông đã làm thực nghiệm để tìm ra cái sai trong quan niệm cũ về liên kết và phân tích lực. Điều đó rất đáng ghi nhận”.
IV. CÓ LẢM NÊN ĐIỀU VĨ ĐẠI
Với phát hiện về việc các lực chỉ độc lập với nhau khi chúng vuông góc với nhau, ông Nguyễn Văn Thường đã nâng lên thành nguyên lý độc lập và nguyên lý này ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của ông đã được đăng ký bảo hộ tại Cục Sở hữu Công nghiệp năm 2005 với tên gọi “Những phát hiện mới về cơ học và vật lý có liên quan đến một số giáo trình cơ bản tại Hà Nội- Việt Nam 1965-2000”.
Chưa ai khẳng định phát hiện của ông Thường có đi trước thời đại, có mới trên thế giới hay không nhưng chí ít, những tìm tòi của người thợ cơ khí đặc biệt này đã được giới khoa học Việt Nam công nhận. Tại cuộc tọa đàm ngày 31-3, ông Nguyễn Quốc Bảo, Chủ tịch Hội Trí thức khoa học và Công nghệ trẻ Việt Nam, cho biết hội sẵn sàng giúp ông Thường về kinh phí để tra cứu các nghiên cứu trên thế giới, qua đó tìm hiểu về độ mới của công trình này.
PGS Phạm Bích San, Giám đốc Văn phòng Tư vấn Phản biện các vấn đề xã hội của Liên hiệp Các hội Khoa học – Kỹ thuật Việt Nam, cho rằng tốt nhất, ông Thường nên gửi nghiên cứu của mình đến các tạp chí khoa học uy tín trên thế giới. Nếu công trình của ông được công nhận, có lẽ sẽ là lần đầu tiên, một công nhân bình thường làm nên điều vĩ đại.
Nguồn: Dân Trí, Báo Thanh Niên