Lần đầu tiên tôi thấy cha tôi khóc là khi tôi 16 tuổi còn cha tôi 45 tuổi. Đó là ký ức tôi không bao giờ có thể quên được, không chỉ vì tôi quá xúc động trong giây phút ấy mà vì cách cha tôi suy nghĩ về cuộc sống.
Tôi đang trên đường từ trường học ở Doland, thị trấn South Dakota trở về nhà. Đối với tôi, South Dakota là thị trấn khiến tôi yêu bằng cả tâm hồn và trái tim mình và ngôi nhà tuyệt vời mà chúng tôi đang ở từng là mái ấm cho những đứa trẻ may mắn nhất trong cuộc đời của cha tôi. Đó là nơi lưu giữ những giây phút phấn khích và tràn đầy tình yêu trong suốt nhiều năm.
Đó không phải là một toà nhà nguy nga mà sau này có thể trở thành phòng trưng bày ở một thành phố lớn. Đó là một ngôi nhà khá tốt như bất kỳ các ngôi nhà khác ở Doland. Đó là nơi rộng rãi với mái che màu trắng và một hàng hiên, những tán cây đung đưa theo làn gió, trước bãi cỏ và một vườn cây mận, táo ở phía sau. Mẹ tôi yêu ngôi nhà đó, nó có sàn gỗ, một tầng hầm lớn và hai phòng tắm. Cha tôi cũng yêu ngôi nhà đó. Và đối với lũ trẻ chúng tôi (anh trai tôi Ralph, hai chị em của tôi, Frances, Fern và tôi), đó là ngôi nhà đẹp tuyệt vời với những hàng cây và bầu trời ngập nắng.
Khi tôi trở về nhà vào một ngày của năm 1927, mẹ tôi đang đứng dưới cây dương lớn trước thảm cỏ và bà đang khóc. Bà đứng cạnh cha tôi cùng một người lạ mặt. Cả hai người đàn ông có vẻ rất nghiêm nghị và hẳn là đã có chuyện gì đó sắp diễn ra. Mẹ tôi nói rằng, “Cha tôi đã bán ngôi nhà này”. Nhiều hoá đơn đến hạn phải trả trong khi chúng tôi không có tiền thanh toán. Sau khi trò chuyện với người đàn ông lạ mặt kia, cha tôi đã ký vào giấy bán nhà. Người đàn ông đó ra về và đến lượt cha tôi cũng bật khóc.
Chứng kiến cha tôi khóc thực sự khiến tôi cảm thấy bị sốc. Ông có đôi vai rộng, cao chừng 1,82m, đôi tay dài và trán cao, đặc điểm mà người con nào của ông cũng được thừa hưởng. Cặp kính mắt không vành mang đến cho ông vẻ ngoài thật chuyên nghiệp nhưng ông cũng là người rất vui tính, mạnh mẽ và điều đáng chú ý nhất của ông chính là niềm say mê công việc tưởng chừng như không có giới hạn. Ông không bao giờ tỏ ra bị động trước bất cứ điều gì.
Sự kiện này có thể là trải nghiệm sâu sắc nhất trong những năm đầu đời của tôi. Đó là thời điểm tôi không còn là một đứa trẻ mà đã bắt đầu có những nhận thức như người lớn về nỗi đau và bi kịch cuộc đời. Ký ức đó sâu sắc bởi vì vào cùng thời điểm đó, những người khác ở thị trấn bắt đầu phải đối mặt với nỗi đau mất nhà cửa giống như gia đình tôi. Một người hàng xóm của chúng tôi đã tự tử khi gặp rắc rối này.
Tuy vậy, trải qua nhiều năm, ký ức này không chỉ gợi cho tôi nghĩ đến hình ảnh một người đàn ông ôm mặt khóc mà còn những mất mất lớn lao mà ông phải hứng chịu. Ông vẫn tiếp tục làm những việc ông từng làm trước đó, lao vào dòng đời mà không cần phải tự bảo vệ bản thân trước những ngờ vực, dè dặt hay sự thận trọng. Mọi người đều thích tận hưởng ánh mặt trời ấm áp. Nhưng nhiều người trong số đó lại không sẵn sàng đón nhận những cơn bão táp bất ngờ có thể ập đến bất cứ lúc nào. Và khi họ bị sốc hoặc tổn thương, họ thường lẩn tránh và giấu giếm. Cha tôi không phải người như vậy. Ngay tại thời điểm ông trút hơi thở cuối cùng, vào tháng 11-1949, ông vẫn chưa bao giờ hết yêu cuộc đời này.
Cha tôi đã dành cả cuộc đời để yêu thương. Ông không bao giờ giữ kín cảm xúc trong lòng hoặc tỏ ra ngần ngại trước những điều ông cho là có giá trị. Ông luôn dành cả trái tim chân thành và hồn hậu để cảm nhận mọi sự việc trong cuộc sống. Tuy vậy, ông không phải đơn giản là người chỉ đi tìm kiếm niềm vui. Ông yêu quý trọng mọi khoảnh khắc nhưng đối với ông, khoảng thời gian quý giá là điều gì đó chạm tới tinh thần và có một mục đích tốt đẹp. Ông ấy là người sinh ra để làm giáo viên, một nhà truyền giáo có khiếu hài hước.
Ông từng làm chủ một hiệu thuốc nhỏ và cuộc sống của chúng tôi xoay quanh hiệu thuốc và ngôi nhà. Tôi sinh ra trong một căn phòng ở hiệu thuốc tại Wallace, South Dakota và cũng lớn lên ở đó. Trong ký ức của tôi, đó chưa bao giờ là nơi lạnh lẽo.
Cha tôi là một doanh nhân có tính tỉ mỉ. Ông luôn nhắc nhở chúng tôi về tầm quan trọng của việc giữ gìn cẩn thận các cuốn sách và hàng tồn kho. Ông cũng là một trong những nhà quảng cáo tài ba nhất mà tôi đã từng gặp. Chẳng hạn như, cha tôi bày các sản phẩm trên nhiều giá hàng và để khách hàng tự chọn mặt hàng họ thích. Ngày nay, kiểu bán hàng này đã trở nên rất phổ biến. Ông có lẽ là doanh nhân đáng nể nhất trong thị trấn. Ở hiệu thuốc, mọi người có thể bàn luận mọi chủ đề từ những chuyện xảy ra ở thị trấn đến các tin tức thời sự, chính trị, tôn giáo. Họ thường nói với cha tôi rằng, “ông chưa bao giờ bán một viên thuốc mà không bán cùng với một ý tưởng”.
Mẹ tôi vốn không thoải mái khi tôi chơi với một số người bạn mà bà nghĩ họ quá khác thường. Ấy vậy mà, cha tôi lại khuyến khích chúng tôi quen biết và cố gắng hiểu tất cả mọi hạng người. Shantytown ở Doland là nơi những trẻ em nghèo sinh sống và tôi có vài người bạn ở đó. Một ngày nọ, tôi dẫn một trong những đứa trẻ đó về hiệu thuốc và nói với cha tôi rằng, “Cha ơi, Jonathan này không có giày và chân cậu ấy lạnh cóng”. Cha tôi nhìn cậu bạn tôi và vội đóng cửa hiệu thuốc để đưa cậu đi mua tất và một đôi ủng mới.
Khi kinh tế nước Mỹ lao dốc, công việc kinh doanh ở hiệu thuốc trong gia đình tôi cũng sa sút theo. Nhưng dù cuộc sống có khó khăn như thế nào đi chăng nữa, cha tôi không bao giờ từ chối một người xin thuốc cho gia đình hay gia súc ở nông trại. Có lúc, cha tôi đã xoá nợ gần 13.000 USD cho các khách hàng của ông. Cha tôi nói rằng: “Họ không có tiền, và nếu họ nợ chúng ta và không thể trả lại được, họ sẽ không tới hiệu thuốc của chúng ta nữa”. Và đương nhiên, nếu không uống thuốc thì họ đâu thể khỏi được bệnh.
Cha tôi là một người có lòng tin tuyệt đối vào đất nước, nền dân chủ và công lý trong xã hội, một người không xấu hổ khi bộc lộ cảm xúc một cách sâu lắng và cởi mở, người thích những ý tưởng giúp đỡ người dân. Suốt cuộc đời mình, ông luôn làm việc chăm chỉ không chỉ để nuôi sống gia đình mà đó còn là niềm yêu thích của ông.
Ở thị trấn của chúng tôi, cha mẹ và trẻ em đều hiểu nhau. Trẻ em có thể thấm nhuần các bài học cuộc sống thông qua việc quan sát và tham gia làm việc cùng cha mẹ. Hiện nay, tại những thành phố lớn, chúng ta cần đến một nỗ lực lớn để các thành viên trong gia đình sum họp đông đủ. Các ông bố, cha mẹ luôn bận rộn tại công sở. Trong khi đó, người ở bên cạnh con cái họ thường là những người xa lạ.
Tôi ngồi bên cha, nhìn cha, nghe cha nói và tranh luận cùng cha. Đó là điều may mắn nhất ông mang đến cho tôi. Kể từ khi ông ra đi, tôi đã cố gắng sống một cuộc sống mà ai cũng mong đợi. Đối với tôi, gia tài vô giá mà tôi có được chính là những ngày tháng thơ ấu được ở bên người đàn ông nhạy cảm và tài giỏi, đó là cha tôi.
Trên đây là những dòng tâm sự về người cha đáng kính của Hebert Humphrey Horatio, Jr (1911-1978), một chính trị gia người Mỹ, từng là Phó tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Lyndon B. Johnson từ năm 1965 đến 1969.
Theo The Atlantic | Minh Phương