“Đức không tương xứng, tất có tai ương” là câu nói có xuất xứ từ sách “Chu Tử Gia Huấn”, ý nói rằng đức hạnh và địa vị của một người mà không tương xứng với nhau thì người ấy nhất định sẽ có tai họa.
Đức hạnh của con người được ví như nền nhà, còn danh dự, quyền lợi và của cải của một người được ví như căn nhà, một khi nền móng quá nông, quá mỏng mà nhà lại quá cao thì căn nhà ấy sẽ xuất hiện nguy hiểm, gây ra nghiêng lệch, không chắc chắn thậm chí là bị đổ sập. Nền móng kém thì lầu cao bị nghiêng, đức không tương xứng với địa vị thì tai họa giáng xuống.
Trong cuộc sống hiện thực, chúng ta có thể thấy không ít những người nghèo đột nhiên giàu lên sau một đêm rồi lại cả người lẫn của cũng không còn, hay có những người được thăng quan tiến chức nhanh chóng sau đó lại lâm vào cảnh tù ngục. Rất nhiều người buồn bã mà than thở, không hiểu rõ được vì sao danh tiếng, tiền bạc, quyền lực của họ lại không đem tới cho họ hạnh phúc mà là tai họa?
Kỳ thực, đó chính là vì khi có tiền tài danh vọng và quyền thế trong tay, người ta dễ dàng sống xa hoa, phóng túng, hoang dâm vô độ khiến cho đạo đức bị trượt dốc. Thậm chí không ít người khi có quyền thế trong tay liền làm ra những chuyện vô đạo. Khi đạo đức của một người trở nên xấu, trong khi địa vị của họ lại cao thì chính là ứng với câu: “Đức bất phối vị”, giống như đi cà kheo, nguy hiểm như leo lên vách núi, nên dễ dàng trượt ngã.
Trong lịch sử, triều đại nào cũng có những trường hợp “Đức bất phối vị” được ghi chép lại.
Vào triều đại nhà Đường dưới thời Võ Tắc Thiên, Lai Tuấn Thần dựa vào vu cáo sai sự thật, đặt điều bức tội, bức hại tra tấn trung lương mà được thăng chức. Lai Tuấn Thần vốn là một tên đạo tặc, chỉ mải chơi cờ bạc không lo học hành. Một lần vì trộm cắp mà Tuấn Thần bị bắt giam trong ngục của Thứ sử Vương Tục.
Sau khi Võ Tắc Thiên nắm triều chính đã tru sát rất nhiều đại thần, bao gồm cả Thứ sử Vương Tục. Sau khi Vương Tục chết, Lai Tuấn Thần thừa cơ tố giác, thêu dệt những việc không có để đổ tội cho Vương Tục. Võ Tắc Thiên thấy Tuấn Thần ra sức tố giác thì cho rằng ông ta là trung thành với mình nên nhanh chóng đề bạt ông ta. Được Võ Tắc Thiên tin tưởng, Lai Tuấn Thần được thăng chức rất nhanh.
Thời gian nắm quyền, Lai Tuấn Thần thường dùng nhục hình giết hại vô số người. Phàm là những vụ án được Võ Tắc Thiên giao cho ông ta thẩm tra xử lý, ai mà không hợp ý ông ta liền bị liên lụy cả nhà. Khi Tuấn Thần tra khảo thì không kể nặng nhẹ đều đổ nước muối vào lỗ mũi để bắt họ nhận tội. Ông ta còn đào đất làm Thủy lao để ngâm phạm nhân vào trong nước hành hạ, còn bỏ đói không cho ăn khiến phạm nhân vì đói mà phải nuốt vải y phục thay lương thực. Nói chung, phương sách của Tuấn Thần là chưa nhận tội, chưa chết thì chưa chịu buông tha.
Đến khi Tuấn Thần 47 tuổi, ông ta lại bị người tố phạm vào tội danh “mưu phản”. Sau đó không lâu, ông ta bị đưa lên pháp trường xử trảm. Những người căm hận ông ta nghe tin này đều tới pháp trường chứng kiến và tranh nhau xẻ thịt ông ta để lấy, chỉ trong ít phút, xác Tuấn Thần đã không còn, “chết mất xác”.
Một trường hợp nữa chính là gian thần Nghiêm Tung triều nhà Minh. Vào triều nhà Minh, Nghiêm Tung kết bè kết đảng, diệt trừ hết thảy những người có ý kiến đối lập với ông ta. Lúc nắm quyền hành, ông ta một tay che cả bầu trời, thao túng triều chính, thường đưa người vào chỗ chết. Ông ta thậm chí còn vong ân phụ nghĩa, dẫm đạp lên người đã từng giúp đỡ mình để leo lên chức cao hơn.
Nhưng cuối cùng Nghiêm Tung và con cái ông ta cũng không thoát được tai ương. Nghiêm Thế Phan, con trai của ông ta bị chặt đầu, toàn bộ gia sản nhà họ Nghiêm cũng bị tước, bản thân Nghiêm Tung bị bãi chức, không có nhà để về. Hai năm sau, Nghiêm Tung mắc bệnh nặng qua đời. Lúc Nghiêm Tung chết, thi thể được chôn mà không có quan tài, càng không có ai đến đưa tiễn.
Từ sự thực lịch sử có thể thấy, một người dựa vào nịnh nọt, dựa vào sự hung độc tàn ác thì chỉ có thể nổi lên nhất thời, một người nếu như không có đức hạnh thì bản thân sẽ không có vị trí ổn định, địa vị càng cao càng dễ rớt xuống đến đáy. Một người có thể đứng ở vị trí cao mà vững chắc, không lo nghĩ, thì không phải dựa vào quan hệ, toan tính và thủ đoạn, mà là nhờ đức hạnh và sự thiện lương.
Cổ nhân giảng: “hậu đức tải vật”, “đức cao vọng trọng”… Nhân nghĩa thiện lương là ngọn nguồn của phúc báo, liên tục tích đức hành thiện, phúc báo tự nhiên sẽ luôn nhiều. Một người hiền hậu, từ bi mới có thể bình an mà nhận được phúc lộc. Danh dự, quyền lợi, của cải của một người đều là gánh nặng đặt trên thân, chỉ đó đức hạnh lớn mới có thể chịu tải được tài phú và địa vị của người ấy.