Một em bé đang được cho bú dê, trích trong sách “Nuôi dưỡng trẻ sơ sinh bằng phương pháp nhân tạo”, tác giả Sadler. S. H, 1896.

by admin

Việc dùng dê làm vú nuôi (hay còn gọi là nhũ mẫu) đã có từ lâu. Thế kỷ 16, có ghi chép nhiều bà mẹ Pháp không dám thuê người cho con bú vì sợ lây bệnh, nhất là giang mai. Dê là nguồn thay thế dễ kiếm và an toàn vì chúng ít bệnh tật.

Trường hợp các bà mẹ ít sữa hay không có sữa tìm người thay thế mình không phải hiếm. Động tác bú được cho là hỗ trợ tiêu hóa tốt với trẻ sơ sinh, nên từ thế kỷ 18, các nhà y tế học ủng hộ việc cho trẻ bú dê khi gia đình không thể kiếm được vú nuôi (hay nhà nghèo không đủ tiền thuê). William Potts Dewees (1768-1841), tiến sĩ y học, người viết cuốn sách đầu tiên về chăm sóc y tế trẻ em ở Mỹ, đánh giá cao sữa dê hơn sữa bò, cừu, lừa và ngựa cái. Việc cho trẻ bú sữa dê vẫn còn được ghi chép năm 1879 ở bệnh viện nhi Paris.

Thời kỳ trước là bằng kinh nghiệm và theo dõi trực quan. Còn với các nghiên cứu y học hiện đại, sữa dê có 1 số lợi thế đáng kể so với sữa bò: chứa ít Alpha-S1-casein – protein gây dị ứng, chứa các protein tạo sữa đông mềm giúp dễ tiêu hóa hơn, có ít đường lactose hơn, axit béo trong sữa dê dễ chuyển hóa hơn.

You may also like

Leave a Comment