Những lời bộc bạch của Khỉ Shinagawa

by admin

“Hẳn cậu phải cảm thấy cô đơn lắm”. “Chắc chắn là vậy rồi. Không ai bảo vệ tôi, tôi phải tự mình kiếm ăn và sống sót bằng cách nào đó. Nhưng điều tồi tệ nhất là không có ai để liên lạc. Tôi không thể nói chuyện với khỉ hoặc với con người. Sự cách ly như thế thật đau đớn.”

Tôi đã gặp con khỉ già đó trong một quán trọ nhỏ kiểu Nhật tại thị trấn suối nước nóng ở tỉnh Gunma, khoảng năm năm trước. Cái quán trọ nơi tôi chỉ tình cờ nghỉ qua đêm này thật thô kệch, nếu không muốn nói là cũ nát, hầu như không có khách.

Tôi luôn đi du lịch xung quanh, bất cứ nơi nào mình muốn, rồi khi tôi đến thị trấn suối nước nóng này và xuống tàu thì đã quá bảy giờ tối. Thu đã gần tàn, Mặt Trời đã lặn từ lâu, và nơi này được bao phủ bởi màu xanh lục đặc trưng của vùng miền núi. Một cơn gió lạnh buốt thổi xuống từ những đỉnh núi, làm những chiếc lá cỡ nắm tay bay xào xạc dọc con phố.

Tôi đi bộ qua trung tâm thị trấn để tìm chỗ trọ, nhưng không một nhà trọ đàng hoàng nào nhận khách sau giờ ăn tối. Tôi dừng lại ở năm sáu nơi, nhưng tất cả đều khiến tôi thất vọng. Cuối cùng, ở một khu vực vắng vẻ bên ngoài thị trấn, tôi tình cờ tìm thấy một quán trọ đồng ý nhận khách. Đó là một ngôi nhà hoang vắng, xiêu vẹo, gần như trống không. Nó hẳn đã trải qua rất nhiều năm, nhưng lại không có sức hấp dẫn kỳ lạ mà ta từng mong đợi ở một quán trọ cũ. Các kết cấu hơi dốc xuống, như thể việc được sửa chữa cẩu thả khiến chúng không ăn khớp với những phần còn lại. Không tin rằng ngôi nhà có thể trụ lại trong trận động đất tiếp theo, tôi chỉ có thể hy vọng rằng sẽ không có cơn bão nào ập đến khi đang trọ ở đó.

Nhà trọ không phục vụ bữa tối nhưng có phục vụ bữa sáng, và giá qua đêm rất rẻ. Bên trong lối vào là một bàn tiếp tân đơn giản, đứng sau là một ông già hói đầu – thậm chí không có lông mày – vừa nhận tiền phòng của tôi rất trân trọng. Vì thiếu lông mày nên đôi mắt mở to của ông lão dường như lấp lánh một cách kỳ dị, đầy vẻ giận giữ. Trên cái đệm trải trên sàn cạnh ông, một con mèo lớn màu nâu, trông già nua không kém, đang cuộn tròn ngủ say. Mũi của nó có gì đó không bình thường, vì nó ngáy to hơn bất kỳ con mèo nào tôi từng nghe. Thỉnh thoảng tiếng ngáy của nó bị hụt một nhịp. Mọi thứ trong căn nhà trọ này dường như đã cũ lắm và chuẩn bị đổ sụp.

Căn phòng tôi được dẫn tới thật chật chội, giống như một cái kho giường nệm; ánh sáng trần nhợt nhạt và sàn nhà dưới chiếc chiếu tatami kêu cọt kẹt theo từng bước chân. Nhưng đã quá muộn để chọn được chỗ tốt hơn. Tôi tự nhủ mình nên hạnh phúc khi có một mái nhà trên đầu và một chiếc nệm để ngủ.

Tôi đặt hành lý, một túi đeo vai lớn, xuống sàn và lên đường trở lại thị trấn. (Đây chính xác không phải là loại phòng tôi muốn nằm ườn ra). Tôi đi vào một cửa hàng mì soba gần đó và ăn bữa tối đơn giản. Hoặc bữa ăn đó hoặc không có gì ăn cả, vì các nhà hàng khác không mở. Tôi gọi một ly bia, một số đồ ăn nhẹ kiểu người ta hay bán trong quán bar, và một ít mì soba nóng. Soba là thứ đồ ăn xoàng, một món súp nhạt nhẽo, nhưng, một lần nữa, tôi đã không phàn nàn. Nó giúp tôi không phải đi ngủ với cái bụng đói. Sau khi rời cửa hàng mì soba, tôi định sẽ mua một ít đồ ăn nhẹ và một chai rượu whisky nhỏ, nhưng tôi không thể tìm thấy cửa hàng tiện lợi nào. Lúc đó đã hơn tám giờ tối, và nơi duy nhất mở cửa là các trung tâm trò chơi bắn súng vốn thường mở trong các thị trấn suối nước nóng. Vì vậy, tôi đã trở lại nhà trọ, thay một chiếc áo choàng yukata và xuống cầu thang để đi tắm.

So với căn nhà và tiện nghi tồi tàn, bồn tắm dùng nước suối nóng tại nhà trọ thật tuyệt vời. Nước nóng có màu xanh đậm, không bị pha loãng, mùi lưu huỳnh cay nồng hơn bất cứ thứ gì tôi từng trải qua, và tôi ngâm mình ở đó, làm ấm cơ thể đến tận trong xương. Không có ai cùng tắm (tôi không biết có còn khách nào khác ở nhà trọ này không), và tôi đã có thể tận hưởng một bồn tắm dài, đầy nhàn nhã. Sau một lúc, tôi cảm thấy nhẹ đầu hơn một chút và ra ngoài để làm mát, rồi trở lại bồn tắm. Có lẽ nhà trọ trông thật tồi tệ này là một lựa chọn tốt, tôi nghĩ vậy. Tắm môt mình chắc chắn yên bình hơn là tắm với một số nhóm du khách ồn ào, như cách ta vẫn phải thực hiện trong các nhà trọ lớn hơn.

*

Tôi đang ngâm mình trong bồn tắm đến lần thứ ba thì một con khỉ trượt cánh cửa kính đánh két một tiếng và đi vào. “Xin lỗi”, nó hạ giọng. Phải mất một lúc tôi mới nhận ra đó là một con khỉ. Cái thứ nước nóng đậm đặc này khiến tôi hơi choáng, và tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể nghe được khỉ nói, vì vậy tôi không thể ngay lập tức kết nối giữa những gì tôi đang thấy với thực tế rằng đây là một con khỉ thực sự. Con khỉ khép cánh cửa sau lưng lại, sắp xếp những chiếc xô nhỏ nằm rải rác thành hàng và đưa nhiệt kế vào bồn tắm để kiểm tra nhiệt độ. Nó nhìn chăm chú vào cột số trên nhiệt kế, đôi mắt nó nheo lại, như thể một nhà vi khuẩn học đang phân lập một số chủng mầm bệnh mới.

“Bồn tắm thế nào anh?”, con khỉ hỏi tôi.

“Rất tuyệt. Cảm ơn cậu”, tôi nói. Giọng tôi vang lên đục và khe khẽ trong hơi nước. Nghe có vẻ gần như thần thoại, không giống giọng nói của tôi mà đúng hơn là tiếng vọng từ quá khứ đang trở về từ tận rừng sâu. Và tiếng vọng đó là… xin chờ một chút. Một con khỉ đang làm gì ở đây? Và tại sao nó có thể nói tiếng người như tôi?

“Tôi giúp anh kỳ lưng nhé?”, con khỉ hỏi, giọng nó vẫn trầm trầm. Nó có giọng nói rõ ràng, lôi cuốn giống tiếng kèn baritone trong một ban nhạc blue. Đó không phải tất cả những gì ta mong đợi. Nhưng không có gì lạ trong giọng nói của nó: nếu nhắm mắt lại và lắng tai nghe, ta sẽ nghĩ đó là một người bình thường đang nói.

“Vâng, cảm ơn cậu”, tôi trả lời. Không phải là tôi đang ngồi đó với hy vọng ai đó sẽ đến và kỳ lưng cho tôi, nhưng nếu từ chối, tôi sợ rằng nó có thể nghĩ tôi đã phản đối việc có một con khỉ làm điều đó. Tôi nghĩ rằng đó là một lời đề nghị tử tế của nó, và tôi chắc chắn không muốn làm tổn thương cảm xúc của nó. Vì vậy, tôi từ từ đứng dậy ra khỏi bồn và ngồi phịch xuống một cái bục gỗ nhỏ, quay lưng lại phía con khỉ.

Con khỉ không mặc quần áo. Tất nhiên, các con khỉ thường như vậy, nên tôi không thấy kỳ quặc. Nó có vẻ khá già; nó có một ít sợi lông bạc trên đầu. Nó lấy một chiếc khăn nhỏ, chà xát xà phòng lên, và kỳ lưng cho tôi rất chuẩn bằng một bàn tay thuần thục.

“Những ngày này trời rất lạnh, đúng không anh?”, con khỉ nhận xét.

“Đúng vậy”.

“Trước đó, nơi này sẽ được bao phủ trong tuyết. Và sau đó họ sẽ phải xúc tuyết từ trên mái nhà, việc này không hề dễ dàng, tin tôi đi”.

Tôi nói sau khi im lặng một lúc: “Vậy cậu có thể nói tiếng người à?”

“Tôi thực sự có thể mà”, con khỉ trả lời ngay. Có lẽ nó đã được hỏi vậy nhiều lần. ”Tôi đã được con người nuôi dưỡng từ khi còn nhỏ, và trước nhận ra điều đó, tôi đã có thể nói được. Tôi sống khá lâu tại Tokyo, ở Shinagawa”.

“Vùng nào của Shinagawa?”.

“Quanh Gotenyama”.

“Vùng ấy đẹp đấy”.

“Vâng, anh biết đấy, đó là một nơi sống rất dễ chịu. Gần đó là Vườn Gotenyama, và tôi rất thích phong cảnh thiên nhiên ở đó”.

Cuộc trò chuyện của chúng tôi tạm dừng tại thời điểm này. Con khỉ tiếp tục kỳ mạnh vào lưng tôi (cảm giác thật tuyệt), và trong lúc đó tôi cố gắng tự giải thích mọi thứ một cách hợp lý. Một con khỉ lớn lên ở Shinagawa? Vườn Gotenyama? Và có thể nói trôi chảy như người vậy? Sao vậy được chứ? Đây là một con khỉ, một con khỉ tốt bụng. Một con khỉ, và không có gì khác.

“Tôi sống ở Minato-ku”, tôi thốt lên một câu thật vô vị.

“Vậy chúng ta gần như là hàng xóm”, con khỉ nói với giọng thân thiện.

“Kiểu người nào đã nuôi dạy cậu ở Shinagawa thế?”, tôi hỏi.

“Thầy tôi là giáo sư đại học. Ông thuộc chuyên ngành vật lý, và giảng dạy tại Đại học Tokyo Gakugei”.

“Vậy đó quả là một bậc trí thức”.

“Hẳn vậy rồi. Ông yêu âm nhạc hơn tất thảy, đặc biệt là âm nhạc của Bruckner và Richard Strauss. Nhờ đó, tôi đã tự hình thành niềm yêu thích với âm nhạc đó. Tôi nghe nó mọi lúc. Tự nhiên có hiểu biết về nó mà không hề nhận ra, có thể nói vậy”.

“Cậu có thích Bruckner không?”

“Có chứ. Bản giao hưởng số 7 của ông ấy. Tôi luôn thấy chương ba thực sự được đẩy lên cao trào”.

“Tôi thường nghe Bản giao hưởng số 9 của ông ấy”, tôi trầm trồ. Lại một câu khá vô nghĩa.

“Vâng, đó là thật sự là một thứ âm nhạc đáng yêu”, con khỉ nói.

“Vậy vị giáo sư đó đã dạy cậu nói à”?

“Đúng vậy đấy. Ông không có con, và, có lẽ để bù đắp cho điều đó, ông đã huấn luyện tôi khá nghiêm ngặt bất cứ khi nào ông có thời gian. Ông rất kiên nhẫn, một người coi trọng trật tự và sự đều đặn hơn mọi thứ. Ông là một người nghiêm túc, với câu nói yêu thích là: sự lặp lại của những sự kiện chính xác là con đường thực sự tới trí tuệ. Vợ ông là một người trầm tính, ngọt ngào, luôn tử tế với tôi. Họ rất hợp nhau, và hơi ngại khi đề cập điều này với người ngoài, nhưng, tin tôi đi, các cuộc yêu về đêm của họ có thể khá dữ dội”.

“Vậy à”, tôi nói.

Con khỉ cuối cùng cũng kỳ lưng cho tôi xong. “Cảm ơn vì sự kiên nhẫn của anh”, nó nói và cúi đầu xuống.

“Cảm ơn cậu”, tôi nói. “Thật sảng khoái quá. Vậy, cậu có làm việc ở đây, tại nhà trọ này không?”

“Có. Họ thật tử tế khi để tôi làm việc ở đây. Các nhà trọ lớn hơn, cao cấp hơn sẽ không bao giờ thuê một con khỉ. Nhưng ở đây họ luôn thiếu người làm, và nếu thực sự được việc, họ sẽ không quan tâm đó là con khỉ hay bất kỳ loài vật gì. Đối với một con khỉ, tiền công rất tối thiểu, và họ chỉ cho tôi làm việc ở nơi mà họ quan sát thấy. Chăm sóc khu nhà tắm, dọn dẹp, đại loại vậy. Hầu hết khách trọ sẽ bị sốc nếu một con khỉ phục vụ họ trà và hay những việc tương tự thế. Làm việc trong bếp cũng vậy, vì tôi gặp vấn đề với luật vệ sinh thực phẩm”.

“Cậu làm việc ở đây lâu chưa?”, tôi hỏi.

“Khoảng ba năm gì đó”.

“Nhưng cậu hẳn phải từng làm những việc kiểu này trước khi làm ở luôn đây chứ”?

Con khỉ gật đầu luôn. ”Rất đúng”.

Tôi ngập ngừng, rồi sau đó bước ra và hỏi nó: “Nếu không phiền, cậu có thể cho tôi biết thêm về quá khứ của cậu không?”.

Con khỉ cân nhắc một lúc, rồi nói: “Vâng, được thôi. Nó có thể không thú vị như anh mong đợi, nhưng tôi sẽ nghỉ làm lúc mười giờ và sau đó tôi có thể tới phòng anh. Có tiện không?”

“Tốt quá”, tôi trả lời. “Nếu cậu có thể mang theo một ít bia thì tôi cảm ơn lắm”.

“Hiểu rồi. Một số loại bia lạnh. Sapporo được chứ?”

“Được mà. Vậy, cậu uống được bia à?”

“Vâng, một chút”

“Thế thì vui lòng mang theo hai chai lớn”.

“Tất nhiên. Nếu tôi không nhầm, anh đang ở phòng đôi Araiso, trên tầng hai?

“Đúng vậy, tôi nói”.

“Dù sao cũng hơi kỳ lạ nhỉ, anh nghĩ vậy không?”, con khỉ nói. “Một quán trọ trên núi có một căn phòng tên là araiso – ‘bờ biển gồ ghề’.” Nó cười khúc khích. Trong đời tôi chưa từng nghe thấy tiếng khỉ cười. Nhưng tôi đoán những con khỉ thường cười, và thậm chí đôi khi còn khóc. Vì vậy tôi không ngạc nhiên bằng việc chứng kiến nó nói chuyện.

“Mà này, tên cậu là gì?”, tôi hỏi.

“Không, không có tên, theo đúng nghĩa của tên gọi. Nhưng mọi người gọi tôi là Khỉ Shinagawa”.

Con khỉ trượt mở cửa kính, quay lại và cúi chào lịch sự, rồi từ từ đóng cửa lại.

*

Con khỉ đến Phòng đôi Araiso lúc mười rưỡi đêm, bưng theo một cái khay đựng hai chai bia lớn. Ngoài bia, trên khay còn có cái mở bia, hai cái ly và một số đồ ăn nhẹ: mực khô loại dày và một túi bánh kakipi – bánh quy giòn nhân lạc. Những đồ ăn nhẹ điển hình trong quán bar. Đây quả là một con khỉ chu đáo.

Con khỉ bây giờ đã mặc quần áo, quần thể thao màu xám và áo sơ mi dài tay dày có chữ “TÔI ♥ NEW YORK” in trên đó, có lẽ là áo của một đứa trẻ nào đó để lại.

Trong phòng không có bàn, vì vậy chúng tôi ngồi cạnh nhau, trên mấy cái đệm zabuton mỏng, và tựa lưng vào tường. Con khỉ dùng cái mở bia khui một chai và rót ra hai ly. Chúng tôi cụng ly khe khẽ và cùng ăn một ít bánh mì nướng.

“Cảm ơn vì đồ uống”, con khỉ nói và vui vẻ uống bia lạnh. Tôi cũng uống một ít. Thành thật mà nói, có vẻ kỳ lạ khi ngồi cạnh một con khỉ, cùng uống bia, nhưng tôi đoán bạn đã quen với việc này.

“Một cốc bia sau khi xong việc thật không gì tuyệt hơn”, con khỉ nói, lau miệng bằng mu bàn tay lông lá. Nhưng, đối với một con khỉ, cơ hội để được uống một loại bia như thế này là rất ít.

“Cậu có sống trong nhà trọ không?”

“Có, có một căn phòng, kiểu gác mái, họ cho tôi ngủ lại đấy. Thỉnh thoảng có chuột, vì vậy thật khó để thoải mái ở đó, nhưng tôi là một con khỉ, vì vậy tôi phải biết ơn khi có một chiếc giường để ngủ và ba bữa ăn mỗi ngày. Đó thật sự là thiên đường rồi còn gì”.

Con khỉ đã uống xong ly đầu tiên của mình, nên tôi rót cho nó một ly khác.

“Rất cảm ơn”, nó lịch sự nói.

“Cậu đã sống không chỉ với con người mà còn với chính đồng loại của mình chứ? Ý tôi là, với những con khỉ khác ấy”, tôi hỏi. Tôi muốn hỏi nó rất nhiều điều.

“Có, vài lần”, con khỉ trả lời, khẽ cau mặt. Những nếp nhăn quanh mắt nó tạo thành những nếp gấp sâu. “Vì nhiều lý do, tôi đã bị đuổi ra khỏi Shinagawa và được thả ra ở Takasakiyama, khu vực phía Nam nổi tiếng. với công viên khỉ. Lúc đầu tôi nghĩ rằng mình có thể sống hòa thuận ở đó, nhưng mọi thứ đã không như vậy. Những con khỉ khác là đồng đội thân yêu của tôi, đừng hiểu lầm tôi, nhưng, được nuôi dưỡng trong một gia đình của con người, bởi vị giáo sư và vợ ông, tôi không thể bày tỏ tình cảm của mình với những con khỉ kia. Chúng tôi có ít điểm chung và giao tiếp không dễ dàng. “Bạn nói chuyện thật hóm”, chúng nói với tôi vậy, rồi chế giễu và bắt nạt tôi. Những con khỉ cái sẽ cười khúc khích khi chúng nhìn thấy tôi. Khỉ cực kỳ nhạy cảm với sự khác biệt nhỏ nhất. Chúng thấy khôi hài khi nhìn tôi sinh hoạt hàng ngày, rồi điều đó khiến chúng khó chịu, thậm chí đôi khi nổi cáu. Việc ở lại đó trở nên khó khăn hơn, vì vậy cuối cùng tôi đã tự mình ra đi. Nói cách khác là trở thành một con khỉ lang bạt”.

“Hẳn cậu phải cảm thấy cô đơn lắm”.

“Chắc chắn là vậy rồi. Không ai bảo vệ tôi, tôi phải tự mình kiếm ăn và sống sót bằng cách nào đó. Nhưng điều tồi tệ nhất là không có ai để liên lạc. Tôi không thể nói chuyện với khỉ hoặc với con người. Sự cách ly như thế thật đau đớn. Takasakiyama có rất nhiều du khách, nhưng tôi không thể bắt đầu một cuộc trò chuyện với bất kỳ ai mà tôi tình cờ gặp. Nếu cố làm điều đó, địa ngục sẽ xuất hiện. Cuối cùng tôi không thuộc xã hội của khỉ, cũng không thuộc về xã hội của người. Đó là một cuộc hiện sinh đầy đau đớn”.

“Và cậu cũng không thể nghe nhạc Bruckner”.

“Đúng vậy. Đó không còn là một phần cuộc sống của tôi nữa”, Khỉ Shinagawa nói và uống thêm một ít bia. Tôi đã nhìn kỹ khuôn mặt nó, nhưng, vì nó đã đỏ sẵn, nên tôi đã không nhận thấy rằng nó đã trở nên đỏ hơn. Tôi hình dung con khỉ này có thể uống khá. Hoặc có thể những con khỉ không biểu hiện ra mặt khi chúng say.

“Một điều khác thực sự làm tôi đau khổ là quan hệ với khỉ cái”.

“Tôi biết”, tôi nói. “Và “quan hệ” với giống cái, ý cậu là…?”

“Nói ngắn gọn, tôi không cảm thấy ham muốn tình dục đối với khỉ cái. Tôi đã có rất nhiều cơ hội để làm tình với chúng, nhưng chưa bao giờ thực sự cảm thấy ham muốn”.

“Những con khỉ cái không khiến cậu thèm muốn, mặc dù bản thân cậu là một con khỉ?”

“Đúng. Hoàn toàn chính xác. Thật xấu hổ, nhưng, thành thật mà nói, tôi chỉ có thể yêu con người”.

Tôi im lặng và nốc cạn ly bia của mình. Tôi mở túi snack giòn và lấy một nắm. “Điều này có thể dẫn đến một số vấn đề thực sự, tôi nghĩ vậy”.

“Có, thật sự có vấn đề. Rốt cuộc, tôi là một con khỉ, không có cách nào tôi có thể mong đợi những người phụ nữ đáp ứng ham muốn của tôi. Ngoài ra, nó ngược lại với di truyền học”.

Tôi đợi nó nói tiếp. Con khỉ xoa mạnh sau tai và cuối cùng tiếp tục.

“Vì vậy, tôi đã phải tìm một phương pháp khác để loại bỏ những ham muốn chưa được thỏa mãn của mình”.

“ ‘Phương pháp khác’? Ý cậu là gì?”

Con khỉ nhíu sâu đôi mày. Khuôn mặt đỏ ửng của nó trở nên tối hơn một chút.

“Anh có thể không tin tôi”, con khỉ nói. “Có lẽ anh sẽ không tin tôi, tôi có thể nói vậy. Nhưng, từ một thời điểm nhất định, tôi bắt đầu ăn cắp danh tính của những người phụ nữ mà tôi đã yêu”.

“Ăn cắp danh tính của họ ư?”

“Chính xác. Tôi không chắc tại sao, nhưng tôi dường như được sinh ra với một tài năng đặc biệt dành cho việc này. Nếu cảm thấy thích, tôi có thể đánh cắp danh tính của ai đó và biến nó thành của riêng tôi”.

Bao nhiêu bối rối chợt trỗi dậy trong tôi.

“Tôi không hiểu lắm”, tôi nói. “Khi cậu nói cậu ăn cắp danh tính của mọi người, điều đó có nghĩa là họ hoàn toàn mất danh tính?”

“Không. Họ không hoàn toàn mất danh tính. Tôi ăn cắp một phần danh tính của họ, một mảnh. Nhưng khi tôi lấy phần đó đi, cái tên trở nên ít đáng kể, nhẹ hơn trước. Giống như khi Mặt Trời lẫn vào trong mây và cái bóng của bạn trên mặt đất trở nên mờ nhạt hơn nhiều. Và, tùy thuộc vào từng người, họ có thể không nhận thức được sự mất mát. Họ chỉ có cảm giác rằng có gì đó không ổn”.

“Nhưng một số người sẽ nhận ra một cách rõ ràng, phải không? Rằng một phần danh tính của họ đã bị đánh cắp?”

“Phải, tất nhiên. Đôi khi họ nhận ra họ không thể nhớ nổi tên của mình. Khá bất tiện, một nỗi phiền toái thực sự, như anh có thể tưởng tượng ra. Và họ thậm chí có thể không nhận ra tên cái đã từng là danh tính của mình. Trong một số trường hợp, họ phải chịu đựng một cái gì đó gần giống như một cuộc khủng hoảng danh tính. Và đó là lỗi của tôi, vì tôi đã đánh cắp danh tính của người đó. Tôi cảm thấy rất ân hận về điều đó. Tôi thường cảm thấy sức nặng của một lương tâm tội lỗi đè nặng lên mình. Tôi biết điều đó là sai trái, nhưng tôi không thể dừng bản thân mình lại. Tôi không cố gắng bào chữa cho hành động của mình, nhưng các hoóc-môn tình dục của tôi buộc tôi phải làm điều đó. Giống như có một giọng nói bên trong nói với tôi: ‘Này, tiếp tục đi, ăn cắp danh tính. Nó không giống như một việc bất hợp pháp hay bất cứ điều gì tương tự’.”

Tôi khoanh tay và nhìn chằm chằm con khỉ. Hoóc-môn tình dục? Cuối cùng, tôi lên tiếng. “Những danh tính mà cậu ăn cắp chỉ là danh tính của những người phụ nữ cậu yêu hoặc có ham muốn tình dục. Phải vậy không?”

“Chính xác. Tôi không ăn cắp ngẫu nhiên danh tính của bất cứ ai”.

“Cậu đã ăn cắp bao nhiêu danh tính?”

Với vẻ nghiêm túc, con khỉ lấy hai tay nâng đầu mình lên. Nó lẩm bẩm điều gì đó như đang đếm. Nó nhìn lên. “Cả thảy là bảy. Tôi đã đánh cắp danh tính của bảy người phụ nữ”.

Đây có phải là rất nhiều, hoặc không quá nhiều? Ai biết được?

“Vậy cậu sẽ làm sao?” Tôi hỏi. “Cậu sẽ không phiền nếu kể với tôi?”

“Phần lớn là do sức mạnh ý chí. Sức mạnh của sự tập trung, năng lượng tâm linh. Nhưng điều đó là không đủ. Tôi cần một cái gì đó với tên của người thực sự được viết trên đó. Một cái căn cước công dân là lý tưởng nhất. Bằng lái xe, thẻ sinh viên, thẻ bảo hiểm hoặc hộ chiếu. Những thứ kiểu này. Một tấm biển gắn tên người cũng sẽ hiệu quả. Dù sao, tôi cần phải có được một đồ vật giống như những thứ kể trên. Thông thường, ăn cắp là cách duy nhất. Tôi khá thành thạo trong việc lẻn vào phòng của mọi người khi họ ra ngoài. Tôi tìm kiếm một cái gì đó có gắn danh tính của họ trên đó và ăn cắp nó”.

“Vì vậy, cậu sử dụng đồ vật với tên của người phụ nữ trên đó, cùng với sức mạnh ý chí của cậu, để đánh cắp một danh tính?”

“Đúng. Tôi nhìn chằm chằm vào cái tên được viết ở đó trong một thời gian dài, tập trung vào cảm xúc của tôi, tiếp thu tên của người tôi yêu. Nó mất rất nhiều thời gian và mệt mỏi cả về tinh thần và thể chất. Tôi hoàn toàn bị cuốn hút vào nó, và bằng cách nào đó, một phần của người phụ nữ ấy trở thành một phần của tôi. Và tình cảm cùng ham muốn của tôi, mà trước đó không thể thỏa mãn, được thỏa mãn một cách an toàn”.

“Vì vậy, không có gì liên quan đến thể chất?”

Con khỉ gật đầu. “Tôi biết tôi chỉ là một con khỉ thấp hèn, nhưng tôi không bao giờ làm bất cứ điều gì không phải lẽ. Tôi đặt tên cho người phụ nữ mà tôi yêu là một phần của tôi. Tôi đồng ý rằng nó hơi biến thái, nhưng đó cũng là một hành động trong sáng và thuần khiết. Tôi chỉ đơn giản là sở hữu một tình yêu lớn đối với cái danh tính đó ở trong tôi, một cách bí mật. Giống như cơn gió nhẹ thổi qua đồng cỏ”.

“À… à…”, tôi nói, cảm thấy đầy ấn tượng. “Tôi đoán cậu thậm chí có thể gọi đó là hình thức tối thượng của tình yêu lãng mạn”.

“Đồng ý. Nhưng đó cũng là hình thức tối thượng của sự cô đơn. Giống như hai mặt của một đồng tiền. Hai thái cực bị mắc kẹt với nhau và không bao giờ có thể tách rời”.

Cuộc trò chuyện của chúng tôi dừng lại ở đây, và con khỉ và tôi lặng lẽ uống bia, ăn kakipi và mực khô.

“Gần đây, cậu đã đánh cắp danh tính của ai chưa?”, tôi hỏi.

Con khỉ lắc đầu. Nó vuốt mấy lông cứng trên cánh tay mình, như thể chắc chắn rằng nó là một con khỉ thực sự. “Không, gần đây tôi đã không đánh cắp danh tính của bất cứ ai. Sau khi tôi đến thị trấn này, tôi đã quyết định đặt loại hành vi sai trái đó sau lưng. Nhờ đó, linh hồn của chú khỉ nhỏ này đã tìm thấy sự thanh thản. Tôi trân trọng tên của bảy người phụ nữ trong tim và sống một cuộc sống bình lặng, yên tĩnh”.

“Tôi rất vui khi được nghe vậy”, tôi nói.

“Tôi biết điều này khá thuận lợi đối với tôi, nhưng tôi đã tự hỏi liệu anh có đủ tử tế để cho phép tôi đưa ra ý kiến của riêng mình về chủ đề tình yêu hay không”.

“Tất nhiên”, tôi nói.

Con khỉ chớp đôi mắt to mấy lần. Lông mi dày của nó vẫy lên vẫy xuống như cành cọ đu đưa trong gió. Nó hít một hơi thật sâu, thật chậm, kiểu hơi thở của một người nhảy dài trước khi bắt đầu tiếp vạch.

“Tôi tin rằng tình yêu là thứ nhiên liệu không thể thiếu để chúng ta tiếp tục sống. Một ngày nào đó tình yêu có thể kết thúc. Hoặc nó có thể không bao giờ dẫn tới bất cứ điều gì. Nhưng ngay cả khi tình yêu mất dần, ngay cả khi nó không được đáp lại, anh vẫn có thể giữ được ký ức về việc yêu một người, về một người mình đã yêu. Và đó là một nguồn năng lượng ấm áp, đầy giá trị. Nếu không có nguồn năng lượng đó, trái tim của một con người, và trái tim của một con khỉ cũng vậy, sẽ biến thành một vùng đất hoang lạnh lẽo và cằn cỗi. Một nơi không một tia nắng rọi xuống, nơi những bông hoa của sự bình yên, những cái cây của niềm hy vọng sẽ không có cơ hội phát triển. Ở đây, trong tim tôi, tôi trân quý danh tính của bảy người phụ nữ xinh đẹp mà tôi yêu”. Con khỉ đặt lòng bàn tay lên bộ ngực lông lá. “Tôi có kế hoạch sử dụng những ký ức này làm nguồn nhiên liệu nhỏ bé của riêng mình để sưởi ấm trong những đêm lạnh, để giữ ấm cho tôi khi tôi sống hết những chuỗi ngày còn lại trong cuộc sống cá nhân của mình”.

Con khỉ lại cười khúc khích và khẽ lắc đầu vài lần.

“Thật kỳ lạ khi đặt vấn đề như vậy, phải không?”, nó nói. Đời sống ‘cá nhân’. Với thực tế rằng tôi là một con khỉ, không phải là một ‘con người’. Ha ha!”

Khi chúng tôi uống hết hai chai bia lớn thì đã mười một giờ rưỡi đêm. ”Tôi nên đi”, con khỉ nói. “Tôi đang cảm thấy những điều tốt đẹp trong tôi đang từ miệng mình mà biến mất, tôi thấy sợ. Tôi xin lỗi”.

“Không, tôi thấy đây là một câu chuyện thú vị”, tôi nói. Mặc dù có lẽ “thú vị” không phải là một từ chuẩn cho lắm. Ý tôi là, uống bia cùng và trò chuyện với một con khỉ thật sự là một trải nghiệm khá bất thường. Thêm vào đó, thực tế là con khỉ đặc biệt này yêu Bruckner và đánh cắp danh tính của phụ nữ vì nó bị xô đẩy bởi ham muốn tình dục (hoặc có lẽ là tình yêu), và từ “thú vị” có lẽ không mô tả được hết. Đó là điều đáng kinh ngạc nhất tôi từng được nghe. Nhưng tôi không muốn khuấy động cảm xúc của con khỉ nhiều hơn mức cần thiết, vì vậy tôi đã chọn từ trung tính hơn, êm dịu hơn này.

Khi chúng tôi nói lời tạm biệt, tôi đưa cho con khỉ một tờ tiền một nghìn yên làm tiền boa. “Không nhiều lắm”, tôi nói, “nhưng cậu hãy mua cho mình thứ gì đó thật ngon để ăn”.

Lúc đầu con khỉ từ chối, nhưng tôi cứ khăng khăng đưa và cuối cùng nó cũng đành nhận. Nó gấp hóa đơn và cẩn thận nhét vào túi quần bó sát.

“Anh là người rất tốt”, nó nói. “Anh đã nghe câu chuyện về cuộc đời ngớ ngẩn của tôi, mời tôi uống bia, và bây giờ là cử chỉ hào phóng này. Tôi không thể nói cho anh biết tôi đánh giá cao nó như thế nào”.

Con khỉ đặt các vỏ chai bia và ly rỗng vào khay rồi mang ra khỏi phòng.

*

Sáng hôm sau, tôi trả phòng và quay lại Tokyo. Tại quầy lễ tân, tôi không thấy ông già đáng sợ trọc lốc trụi lông mày, cũng không thấy con mèo già với cái mũi khò khè. Thay vào đó là một người phụ nữ trung niên mập mạp, cau có, và khi tôi nói tôi muốn trả các thêm tiền cho những chai bia đêm qua, bà nói, chắc chắn rằng không có khoản phụ thu nào trong hóa đơn của tôi. “Tất cả những gì chúng tôi có ở đây là bia lon từ máy bán hàng tự động”, bà nhấn mạnh. “Chúng tôi không bao giờ bán bia chai”.

Một lần nữa tôi lại bối rối. Tôi cảm thấy như thể các mẩu dữ kiện của thực tại và phi thực tại thay đổi vị trí lẫn nhau một cách ngẫu nhiên. Nhưng tôi chắc chắn đã uống chung hai chai bia lớn với con khỉ khi tôi lắng nghe câu chuyện cuộc đời của nó.

Tôi định hỏi người đàn bà trung niên về con khỉ, nhưng cuối cùng lại thôi. Có lẽ con khỉ không thực sự tồn tại, và tất cả chỉ là ảo ảnh, sản phẩm của một bộ não được ngâm trong nước lấy từ suối nước nóng. Hoặc có thể những gì tôi thấy là một giấc mơ kỳ lạ, siêu thực. “Bà có một nhân viên là một con khỉ già có thể nói chuyện, phải không?”, một câu hỏi như vậy khiến mọi thứ có thể đảo lộn, và trong trường hợp xấu nhất, bà ấy sẽ nghĩ rằng tôi bị điên. Rất có thể con khỉ là một nhân viên ngoài sổ sách và nhà trọ không thể công khai thừa nhận nó vì sợ cảnh báo của phòng thuế hoặc sở y tế.

Trên chuyến tàu về nhà, tôi đã hồi tưởng lại mọi thứ mà con khỉ đã nói với mình. Tôi đã ghi lại tất cả các chi tiết, nhiều nhất có thể từ trí nhớ của mình, vào một cuốn sổ mà tôi dùng trong công việc, nghĩ rằng khi quay trở lại Tokyo, tôi sẽ viết toàn bộ từ đầu đến cuối.

Nếu con khỉ thực sự ‘đã’ tồn tại – và đó là cách duy nhất tôi có thể nhìn thấy nó – tôi không hoàn toàn chắc chắn tôi nên chấp nhận bao nhiêu phần trong những gì nó đã nói với tôi khi đang uống bia. Thật khó để đánh giá câu chuyện của nó một cách công bằng. Liệu thực sự có thể đánh cắp danh tính của những người phụ nữ và sở hữu chúng? Đây có phải là một năng lực độc đáo mà chỉ có Khỉ Shinagawa mới được trời phú? Có lẽ con khỉ này là một kẻ nói dối bệnh hoạn. Ai mà biết được? Đương nhiên, tôi chưa bao giờ nghe nói về một con khỉ mắc chứng nói dối, nhưng, nếu một con khỉ có thể nói ngôn ngữ của con người một cách khéo léo như nó, thì cũng có khả năng rằng nó cũng chỉ là một kẻ nói dối theo thói quen.

Tôi đã phỏng vấn nhiều người, như một phần công việc của tôi, và đã trở nên khá giỏi trong việc đánh hơi xem ai có thể tin và ai không thể. Khi ai đó nói chuyện một lúc, bạn có thể nhận được những gợi ý và tín hiệu tinh tế nhất định và có được cảm giác trực quan về việc người đó có đáng tin hay không. Và tôi không có cảm giác rằng những gì Khỉ Shinagawa đã nói với tôi là một câu chuyện bịa đặt. Cái nhìn trong đôi mắt và sự biểu cảm của nó, cách nó thỉnh thoảng dừng lại suy nghĩ về điều gì đó, sự ngắt nghỉ, cử chỉ của nó, cách nó bị bí từ – không có gì giả tạo hay gượng ép. Và, trên tất cả, có sự trung thực, thậm chí đau đớn trong lời bộc bạch của nó.

Hành trình chuyến nghỉ dưỡng một mình đầy thoải mái của tôi kết thúc, tôi trở lại với thói quen đầy vội vã của thành phố. Ngay cả khi tôi không có bất kỳ nhiệm vụ lớn nào liên quan đến công việc, bằng cách nào đó, mỗi khi trở nên già đi, tôi lại thấy mình bận rộn hơn bao giờ hết. Và thời gian dường như vẫn đều đặn tăng tốc. Cuối cùng, tôi chưa bao giờ nói với ai về Khỉ Shinagawa, hoặc viết bất cứ điều gì về nó. Tại sao phải thử nếu không ai tin mình? Trừ khi tôi có thể cung cấp bằng chứng để chứng minh rằng con khỉ thực đó sự tồn tại, còn không thì mọi người sẽ chỉ nói rằng tôi là kẻ bịa ra chuyện đó. Và nếu tôi viết về nó như một sự hư cấu, câu chuyện sẽ thiếu trọng tâm hoặc điểm nhấn rõ ràng. Tôi cũng có thể tưởng tượng tay biên tập viên của mình trông bối rối và nói rằng: “Tôi rất ngại hỏi, vì anh là tác giả, nhưng chủ đề của câu chuyện này là gì vậy?”

Chủ đề? Không thể nói chỉ có một chủ đề. Nó chỉ kể về một con khỉ già biết nói tiếng người, kỳ lưng cho khách khi tắm bằng nước suối nóng tại một thị trấn nhỏ ở tỉnh Gunma, một con khỉ thích bia lạnh, yêu những người phụ nữ và đánh cắp danh tính của họ. Chủ đề ở đâu? Hay là tính đạo đức ở đâu?

Và khi thời gian trôi qua, ký ức về thị trấn suối nước nóng đó bắt đầu mờ dần. Cho dù những ký ức có thể sống động đến đâu, chúng cũng không thể chinh phục được thời gian.

*

Nhưng bây giờ, năm năm sau, tôi đã quyết định viết về nó, dựa trên những ghi chú nguệch ngoạc hồi đó. Tất cả chỉ vì đã có điều gì đó xảy ra gần đây khiến tôi phải suy nghĩ. Nếu sự cố đó không xảy ra, tôi có thể không viết nó.

Tôi có một cuộc hẹn liên quan đến công việc trong khu bán cà phê của một khách sạn tại Akasaka. Người tôi gặp là biên tập viên của một tạp chí du lịch. Một người phụ nữ rất hấp dẫn, khoảng ba mươi tuổi, nhỏ nhắn, với mái tóc dài, nước da đáng yêu và đôi mắt to, quyến rũ. Nàng là một biên tập viên đầy năng lực. Và vẫn độc thân. Chúng tôi đã làm việc với nhau khá nhiều lần và rất hợp nhau. Sau khi giải quyết xong công việc, chúng tôi ngồi lại và trò chuyện bên tách cà-phê.

Điện thoại di động nàng reo lên và nàng nhìn tôi xin lỗi. Tôi ra hiệu cho nàng cứ nghe cuộc gọi. Nàng kiểm tra số gọi đến và trả lời. Nó dường như là về số đặt chỗ mà nàng đã thực hiện. Có thể tại một nhà hàng, một khách sạn, hoặc một chuyến bay. Một cái gì đó tương tự như vậy. Nàng nói chuyện một lúc, kiểm tra cuốn sổ kế hoạch bỏ túi của mình, và sau đó nhìn tôi đầy bối rối.

“Em rất xin lỗi”, nàng nói khẽ với tôi, tay che điện thoại. “Em biết đây là một câu hỏi kỳ lạ, nhưng tên em là gì nhỉ?”

Tôi thở gấp, nhưng, tình cờ hết mức có thể, tôi nói với nàng tên đầy đủ của nàng. Nàng gật đầu và nói lại cho người ở đầu dây bên kia. Rồi nàng cúp máy và xin lỗi tôi lần nữa.

“Em rất xin lỗi về điều đó. Đột nhiên em không thể nhớ tên của mình. Em rất xấu hổ”.

“Điều này có hay xảy ra không?”, tôi hỏi.

Nàng có vẻ do dự, nhưng cuối cùng cũng gật đầu. “Có, nó đang xảy ra nhiều làm trong những ngày này. Em chỉ không thể nhớ ra tên mình. Giống như em đã bôi đen hoặc một cái gì đó tương tự vậy”.

“Em có quên những thứ khác không? Giống như em không thể nhớ ngày sinh nhật hoặc số điện thoại của bạn mình hay số PIN”?

Nàng lắc đầu dứt khoát. ”Không, hoàn toàn không. Em luôn có một trí nhớ tốt. Em nhớ tất cả sinh nhật của bạn bè. Em chưa từng quên tên người khác, dù chỉ một lần. Nhưng, đôi khi, em không thể nhớ ra tên của mình. Em không thể nhớ ra nó. Sau một vài phút, trí nhớ của em trở lại, nhưng vài phút đó thật sự bất tiện, và em hoảng loạn. Nó giống như em không còn là chính mình nữa. Anh có nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh Alzheimer khởi phát sớm không?”

Tôi thở dài. “Về mặt y tế, anh không biết, nhưng từ khi nào em đột nhiên quên tên của mình?”

Nàng nheo mắt và nghĩ về nó. “Em nghĩ cách đây khoảng nửa năm. Em nhớ đó là khi em đi ngắm hoa anh đào. Đó là lần đầu tiên”.

“Có thể hơi lạ khi hỏi điều này, nhưng em có làm mất cái gì vào thời điểm đó không? Một số thứ như căn cước, bằng lái xe, hộ chiếu, thẻ bảo hiểm?”

Nàng mím môi, suy nghĩ một lúc, rồi trả lời. “Anh biết đấy, bây giờ anh nhắc đến nó, lúc đó em đã mất bằng lái xe. Đó là giờ ăn trưa và em đang ngồi trên ghế đá trong công viên để nghỉ ngơi, và em đặt túi xách của mình ngay cạnh trên băng ghế. Em đang tô lại son bằng hộp phấn son của mình, và khi em nhìn lại, chiếc túi xách đã biến mất. Em không thể hiểu nổi. Em nhìn đi chỗ khác chỉ một giây và em không cảm thấy có ai ở gần, hay nghe thấy tiếng bước chân nào. Em nhìn xung quanh, nhưng em chỉ có một mình. Đó là một công viên yên tĩnh, và em chắc rằng nếu ai đó đến lấy cắp túi của mình, em sẽ phát hiện ra”.

Tôi đợi nàng nói tiếp.

“Nhưng đó chưa phải là toàn bộ những điều kỳ lạ. Ngay chiều hôm đó em nhận được một cuộc gọi từ cảnh sát, nói rằng túi xách của em đã được tìm thấy. Nó đã được đặt bên ngoài một đồn cảnh sát nhỏ gần công viên. Tiền vẫn còn bên trong, cũng như thẻ tín dụng, thẻ ATM và điện thoại di động của em. Tất cả ở đó, không ai chạm vào. Chỉ có bằng lái xe của em đã biến mất. Người cảnh sát khá ngạc nhiên. Ai mà lại không lấy tiền mặt, chỉ lấy có bằng lái xe và để túi lại ngay bên ngoài đồn cảnh sát cơ chứ?”

Tôi khẽ thở dài, nhưng không nói gì.

“Đó là cuối tháng Ba. Ngay lập tức, em đã đến Văn phòng Kiểm soát Xe máy ở Samezu và nhờ họ cấp giấy phép mới. Toàn bộ sự việc khá kỳ lạ, nhưng may mắn thay, không có điều nguy hiểm thực sự nào xảy ra”.

“Samezu là ở Shinagawa, phải không?”

“Đúng rồi. Nó ở Higashioi. Công ty của em ở Takanawa, vì vậy có thể bắt một chuyến taxi để tới đó nhanh chóng”, nàng nói. Nàng nhìn tôi với ánh mắt nghi ngờ. “Anh nghĩ rằng có sự liên quan? Giữa việc em không nhớ ra tên mình và việc mất giấy phép lái xe?”

Tôi nhanh chóng lắc đầu. Tôi chỉ đơn giản là không thể lại cho nàng câu chuyện về Khỉ Shinagawa.

“Không, anh không nghĩ rằng có một liên quan”, tôi nói. “Chỉ thoáng qua đầu anh thôi. Vì nó liên quan đến tên của em”.

Nàng có vẻ không tin lắm. Tôi biết là sẽ có rủi ro, nhưng tôi buộc phải hỏi một câu hỏi quan trọng hơn.

“Nhân tiện, em có từng nhìn thấy con khỉ nào sau đó không?”

“Khỉ ư?”, nàng hỏi. “Ý anh là loài động vật ấy à?”

“Phải, một con khỉ sống”, tôi nói.

Nàng lắc đầu. “Em không nghĩ mình đã nhìn thấy khỉ trong nhiều năm qua. Kể cả trong sở thú hay bất kỳ đâu khác”.

Liệu Khỉ Shinagawa có trở lại thủ đoạn cũ của mình không? Hay là một con khỉ khác sử dụng phương thức hành động của mình để phạm tội tương tự? (Một con khỉ sao chép?) Hay là một cái gì khác, ngoài một con khỉ, đang làm điều này?

Tôi thực sự không muốn nghĩ rằng Khỉ Shinagawa đã quay trở lại để đánh cắp danh tính. Nó từng nói với tôi, trên thực tế, có tới tận bảy danh tính phụ nữ mà nó cất giấu trong tim đã là rất nhiều, và nó thấy hạnh phúc chỉ đơn giản bằng cách lặng lẽ sống những năm tháng còn lại trong thị trấn suối nước nóng nhỏ bé đó. Và dường như nó thành thật. Nhưng có lẽ con khỉ này bị bệnh tâm lý mãn tính, một lý do mà nó không thể tự kiểm soát được. Và có lẽ căn bệnh của nó, và hoóc-môn của nó, đang thúc giục nó ‘làm điều đó’! Và có lẽ tất cả những điều này đã đưa nó trở lại những ám ảnh xưa cũ ở Shinagawa, trở lại với những thói quen xấu xa trước đây của nó.

Có lẽ đôi khi tự tôi sẽ làm thử việc này. Vào những đêm không ngủ, ý nghĩ ngẫu hứng và huyền ảo đó đôi khi ập đến với tôi. Tôi sẽ ghi số căn cước hoặc tên của người phụ nữ tôi yêu, tập trung vào nó như một tia laser, kéo tên nàng vào trong hồn tôi và sở hữu một phần của nàng, cho riêng tôi. Điều đó sẽ cảm thấy như thế nào?

Không. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Tôi chưa bao giờ khéo léo với đôi tay của mình, và sẽ không bao giờ có thể đánh cắp thứ gì đó thuộc về người khác. Ngay cả khi ‘thứ đó’ không có hình hài vật chất, và ăn cắp nó cũng không trái pháp luật.

Tình yêu cùng cực, cô đơn cùng cực. Kể từ đó, bất cứ khi nào nghe một bản giao hưởng Bruckner, tôi đều suy ngẫm về ‘cuộc sống cá nhân’ của Khỉ Shinagawa. Tôi hình dung con khỉ già trong thị trấn suối nước nóng nhỏ bé đó, trên gác mái trong một quán trọ tồi tàn, ngủ trên tấm nệm mỏng. Và tôi nghĩ về những món ăn vặt, món kakipi và mực khô dày mà chúng tôi rất thích khi uống bia cùng nhau, lưng tựa vào tường.

Tôi đã không gặp lại nàng biên tập viên tạp chí du lịch xinh đẹp kể từ đó, vì vậy tôi không biết số phận nàng sau này thế nào. Tôi hy vọng nó không gây ra cho nàng bất kỳ khó khăn thực sự nào. Rốt cuộc, nàng không đáng trách. Nàng không có lỗi gì. Tôi vẫn không thể tự mình kể với nàng về Khỉ Shinagawa, mặc dù điều đó khiến tôi cảm thấy mình thật tồi tệ.

Haruki Murakami

The New Yorker Magazine, 8-15 tháng Sáu, 2020

Nguyễn Trung Kiên dịch

You may also like

Leave a Comment