CÂU CHUYỆN TRỘM MỘ

by admin

I. NHỮNG KẺ TRỘM MỘ ĐẦU TIÊN VÀ CÁCH CHỐNG TRỘM MỘ

Từ năm 2002 đến nay, thể loại phiêu lưu trộm mộ bỗng trở nên hot trên văn đàn tiếng Trung, những tác phẩm như Ma Thổi Đèn, Đạo Mộ Bút Ký, Tử Thư Tây Hạ … nhiều cuốn đã được dựng thành phim và thu hút lượng fans không nhỏ. Tuy nhiên, có bao giờ các anh/chị tự hỏi rằng ai là kẻ trộm mộ đầu tiên trong lịch sử và nghề trộm mộ có từ bao giờ?

Thật ra từ xa xưa không chỉ người Việt mà người Hoa, người Ấn, người Ai (Cập) đều quan niệm rằng chết chưa phải là hết, cái chết chỉ là sự khởi đầu của một dạng tồn tại khác ở một thế giới khác. Mà để khởi nghiệp thì luôn phải có … vốn, thế là nảy sinh thêm chuyện chôn theo đồ tùy táng để người chết làm vốn. Nhà càng giàu, địa vị càng cao thì chôn cất càng hoành tráng, trong mộ càng lắm của cải. Tất nhiên người đã chết mà ôm theo một đống vàng trong khi dân chúng ở xung quanh thì lại nghèo đói là một sự bất công không thể chấp nhận được, các anh các chị có đồng ý không? Thế là tất nhiên có nghề trộm mộ, để lấy của người giàu đã chết đem chia cho người giàu đang sống. Từ những năm 1500 trước Công Nguyên, khi những lăng mộ hoàng gia Ai Cập được xây dựng thì cũng đã có những bản án cho tội trộm mộ được ban ra. Ở Ai Cập, Thung Lũng của Các Vị Vua là nơi chôn cất pharaoh và hoàng gia từ Vương triều thứ 18 đến Vương triều thứ 20. Ngày trước hoàng gia chôn cất người chết trong kim tự tháp thậm chí trong các kim tự tháp còn xây cả mật đạo lẫn thông đạo mê cung nhưng mà trộm cứ ám quẻ không buông, thế nên họ đổi địa điểm khác, xây lăng mộ hẳn trong hang núi cho an toàn, vâng! Đó chính là Thung Lũng của Các Vị Vua. Kế bên còn có Thung Lũng Hoàng Hậu và Nghĩa trang Quý tộc nữa. Nhưng nơi này địa chất không tốt, vài lần bị lũ quét qua rồi nạn trộm mộ nữa, nên mộ nào cũng bị trộm kho báu hoặc tường trong lăng bị hư hại.

Vào Vương triều thứ 20, cụ thể là vào năm cai trị thứ 16, 17 của Pharaoh Ramesses IX, tức sau thời Ramesses II khoảng 100 năm. Nạn trộm mộ xảy ra trên diện rộng, các lăng mộ ở Thung Lũng của Các Vị Vua, nghĩa trang quý tộc và của cả thường dân bị trộm đột nhập với tần suất khủng khiếp. Nơi thì bị cướp sạch kho báu, quan tài bị nạo hết lớp vàng và đá quý, xác ướp bị lôi khỏi quan tài và lột sạch đống trang sức lẫn những chiếc bùa có giá trị, thậm chí xác ướp còn bị bứt đầu, đứt tay đứt chân, thi thể bị phá hư không còn lành lặn. Vào thời Ramesses IX đã diễn ra 1 phiên tòa xét xử bọn trộm và được ghi vào cuộn giấy papyrus. Khoảng 100 năm sau, dưới Vương triều thứ 21, trộm mộ vẫn hoành hành không ngớt. Sau đó triều đình đưa ra quyết định: Những lăng mộ nào bị cướp phá được triều đình cử người lấp hang lại, các xác ướp được quấn lại lớp vải liệm khác, sau đó xác ướp cùng đồ vật mà bọn trộm bỏ qua không lấy thì được di dời qua nơi khác để cất giấu. Các quan tư tế đã chuyển một số lượng lớn các xác ướp hoàng gia, xác ướp quý tộc cùng đồ vật ở những lăng mộ bị cướp phá về chung một chỗ để cất giấu. Nơi cất giấu tập thể này là lăng mộ của một quan tư thế Amun thuộc Vương triều thứ 21, lăng mộ đó nằm tại khu nghĩa trang ở Deir el-Bahari, sau này được kí hiệu DB320. Triều đình giữ kín thông tin về nơi chôn giấu mới, qua nhiều năm không còn ai nhớ gì nữa. Đến tận thế kỷ 19, một gã nông dân khi đi tìm con cừu đi lạc đã vô tình mở được cửa một hầm mộ và từ đó hắn lén lút bán đồ chôm được và trở nên giàu có. Sự giàu có bất thường của gã này đã đánh động chính quyền và người ta nhanh chóng bắt gã phải khai ra bí mật. Từ đó, một khu di chỉ khảo cổ học quan trọng bậc nhất trên thế giới được tìm thấy, dù rằng phần lớn các mộ này cũng đã bị bọn trộm … đến thăm từ mấy ngàn năm trước rồi. Đến năm 1922, nhóm của giáo sư Howard Carter bất ngờ khám phá ra lăng mộ của pharaoh Tutakhamen, đó là lần đầu tiên người ta mở được một lăng mộ còn nguyên vẹn dù rằng sau đó những thành viên của đội khai quật lần lượt chầu ông vải hết sạch …

Bên cạnh việc bố trí lính gác tại các lăng mộ Hoàng gia thì phương pháp dùng cạm bẫy bên trong lăng mộ là cách thường được sử dụng nhất. Sử dụng lính canh có cái ưu điểm là sinh động trực quan, loại bỏ ngay từ đầu lũ xấu xa có ý định tăm tia, nhưng sau vài trăm, thậm chí vài ngàn năm, triều đại đổi thay, vương triều mới việc quái gì phải canh gác lăng mộ cho vua triều đại cũ nữa? Hay tệ hơn, họ hàng, con cháu của bọn lính gác có thể trở thành kẻ trộm mộ bất cứ khi nào. Khi đó, những cái bẫy được gài sẵn trong lăng mộ sẽ phát huy tác dụng. Người Ai Cập cổ sử dụng bẫy dây, được tạo từ những sợi dây kim loại rất mỏng, sắc, được treo ngang tầm cổ nhằm mục đích “cắt đầu” những kẻ xâm nhập bất cẩn. Bẫy hố cũng là một loại hình ưa thích để kết liễu những kẻ trộm, phía dưới các hố sâu còn ưu ái cắm thêm chông cho chắc gạo. Bẫy có thể đơn giản chỉ là dạng cửa sập được ngụy trang khéo léo, sẽ tự động kích hoạt khi có người giẫm phải rồi tự động đậy lại. Ngoài ra, cũng có một dạng bẫy khác sử dụng cửa sập, nhưng là để thả đá rơi xuống đầu những kẻ xâm nhập trái phép. Tuy nhiên, loại bẫy này có một nhược điểm là chỉ sử dụng được một lần.

II. NHỮNG TÊN TRỘM MỘ LỪNG DANH

Ở Trung Quốc tục xây lăng mộ có lẽ muộn hơn Ai Cập thế nên nghề trộm mộ cũng ra đời muộn hơn, tuy nhiên do cách ghi chép và làm sử của Trung Quốc nên người đời sau vẫn còn biết đến tên tuổi và chiến tích của những kẻ trộm mộ. Người đầu tiên lịch sử Trung Quốc ghi nhận lại có lẽ là Ngũ Tử Tư, danh tướng nước Ngô thời Xuân Thu. Ngũ Tử Tư tên thật là Ngũ Viên, vốn là người nước Sở, Sở Bình Vương lấy cha Viên là Ngũ Xa cùng với Phí Vô Cực làm thầy dạy thái tử. Tuy nhiên về sau, Phí Vô Cực xúi Sở Bình Vương lấy luôn công chúa nước Tần làm vợ, trong khi trước đó cô này được hỏi về làm vợ cho thái tử, tức là cha lấy con dâu. Vầng, đấy là cái vấn đề của nước Sở trong xuyên suốt thời Xuân Thu – Chiến Quốc: Cứ sau một đời minh quân thì lại đến hai ba thằng óc heo lên làm vua, thế nên mặc dù nước Sở đất rộng dân đông nhất trong lục quốc nên mãi vẫn không thể làm nên trò trống gì, để cuối cùng bị Tần diệt quốc (Trần Thắng, Lưu Bang, Hạng Vũ đều là gốc dân nước Sở, sau này lại diệt Tần thế mới đau). Lại nói Sở Bình Vương tán tận lương tâm, cướp vợ của thái tử lại sợ thái tử để bụng trả thù nẻn nghe lời Phí Vô Cực bắt nhốt Ngũ để chặt vây cánh thái tử. Xa lại có hai con trai là Ngũ Thượng, Ngũ Viên – Thượng nổi tiếng là bậc mãnh tướng, Viên là một mưu sĩ lừng danh, Phí Vô Cực ép Ngũ Xa viết thư gọi hai con trai về triều định giết đi. Xa một mực cự tuyệt không viết, Cực cho người giả chữ viết thư gọi, Ngũ Thượng vốn dân võ biền, dù Ngũ Viên đã can là coi chừng gian kế, Thượng vẫn một mực đòi về vì … biết đâu là thư thật. Đúng như Viên tính toán, Thượng về kinh lập tức Bình Vương lôi hai cha con ra xin thủ cấp. Ngũ Viên ôm con trai của thái tử chạy ra nước ngoài, lưu lạc hơn chục năm, có lúc phải đi ăn xin để nuôi chủ, về sau Viên có công lớn trong việc phò Công tử Quang, tức Hạp Lư lên ngôi vua Ngô. Năm 506 TCN, Ngũ Viên, lúc này đã đổi thành Ngũ Tử Tư lĩnh quân 3 nước Ngô, Đường, Sái đi đánh nước Sở. Đại tướng quân Ngô là binh thánh Tôn Vũ, đánh một lèo thẳng đến Dĩnh Đô, kinh đô nước Sở. Sở Bình Vương lúc này đã chết xanh cỏ, Ngũ Tử Tư không biết mộ ở đâu vì quan viên nước Sở đã chạy hết sạch, Tử Tư khóc suốt mấy ngày, sau có người tiều phu thương tình chỉ chỗ cho, Ngũ Viên lập tức mang quân lính đến phá lăng, quật mồ, bung nắp áo quan, xỉ vả từ sáng đến trưa rồi mang roi ra đánh 300 roi vào xác đến nỗi xương cốt nát vụn, quần áo tan nát mới thôi … đấy có thể coi như người đầu tiên trộm mộ được sử sách ghi nhận nhưng mục đích hãy còn thông cảm được, ấy là vì … tư thù.

Trải mấy trăm năm sau, khi nhà Tần đã thống nhất Trung Hoa để rồi sau đó nhanh chóng bị các cuộc khởi nghĩa do tàn dư của lục quốc nổi dậy đánh gục. Trong khi quân của Hạng Vũ đang khổ chiến ở Cự Lộc với gần như toàn bộ chủ lực quân Tần thì Lưu Bang lại đi đường phía tây, nhanh chóng vào Quan Trung và chiếm luôn Hàm Dương. Tất nhiên Hạng Vũ không đời nào để yên và Lưu Bang cũng thừa biết mình không phải đối thủ của họ Hạng bèn theo kế của Tiêu Hà: Kê khai đầy đủ dân chúng, của cải châu báu trong thành rồi niêm phong lại, chờ Hạng Vũ đến thì giao ra sổ sách, chìa khóa, không quên biện minh: Tiểu tướng đợi thượng tướng quân đến duyệt của cải, vàng bạc, tuyệt nhiên không dám tơ hào … chính vì vậy mà Hạng Vũ siêu lòng mới tha cho Lưu Bang một mạng ở Hồng Môn Yến.

Ấy thế nhưng chưa phải là hết, có người mách cho Hạng Vũ rằng tại Ly Sơn có lăng mộ khổng lồ của Tần Thủy Hoàng, của cải chôn theo nhiều không kể siết nhưng ngặt nỗi là lính xây dựng lăng sau khi hoàn thành nhiệm vụ đã bị tiễn đi theo Tần Thủy Hoàng sau đó nên không ai rõ đường vào lăng như thế nào, phải đào từ đâu… Thời may, một đại tướng của Hạng Vũ là Anh Bố bước ra:

  • Anh mày đây khi xưa vốn là phạm bị bắt đi đào lăng, vì chúng nó định thịt tao nên tao rủ anh em chuồn ra ngoài làm ăn cướp. Đường vào lăng anh đây nắm rõ như lòng bàn tay !

Lập tức Hạng Vũ cho người theo Bố đi đào mộ thu hết của nả bồi táng lại cộng với số đã cướp được từ Hàm Dương cho chở hết về Giang Đông. Phạm Tăng nghe nói đã từng khuyên can Hạng Vũ chớ có đào mộ chôm đồ của người chết vì sẽ tổn âm đức lắm nhưng Hạng Vũ cóc nghe, vẫn cứ đào, nhà cửa, cung điện không mang đi được, Vũ cho lính đốt sạch, công cuộc đốt phá kéo dài tận ba tháng mới dứt. Đoạn này trong Hán Sở tranh hùng có ghi lại nhưng trong Sử ký Tư Mã Thiên thì không, vì Thiên rõ ràng muốn buff uy tín cho Hạng Vũ, qua đó gián tiếp dìm Lưu Bang, hehe. Điều đó cũng giải thích vì sao từ năm 1976, giới khảo cổ học đã tái phát hiện lăng mộ Tần Thủy Hoàng nhưng chỉ tuyền đào được quân đất nung và giáo mác, kiếm cung mà đếch có châu báu? – Vì con Vũ khuân mẹ đi hết rồi còn đâu nữa mà có? – Lại nữa, các bạn thử nghĩ: Trung thành và tận tụy với Hạng Vũ nhất là Chung Ly Muội, Long Thư, Quý Bố, Phạm Tăng … không được phong vương mà cái thằng phạm trốn nã là Anh Bố (Kình Bố) lại được? Để rồi sau đó Kình Bố quay giáo đi theo Lưu Bang đánh lại Hạng Vũ? – Chỉ có giải thích được là vì Hạng Vũ muốn “tưởng thưởng” cho công lao chỉ điểm của Bố, còn việc Anh Bố chống lại Vũ là vì Vũ vơ hết của nả, chỉ ban cho Anh Bố cái tước vương hữu danh vô thực.

Sau đó đến thời Tam Quốc, từ một chư hầu dưới trướng Viên Thiệu nhiều boong, nhờ đào trúng được mộ Lương Vương – Lưu Vũ mà Tào Tháo dư tiền nuôi quân đến tận 3 năm để rồi sau đó hất cẳng Viên Thiệu, trở thành quân chủ hùng bá toàn miền bắc Trung Hoa (chi tiết của vụ này có thể xem lại CHUYỆN TÀO THÁO). Và tất nhiên, do khi sống đã đi đào mộ người ta nên Tào Tháo cực kỳ lo sợ khi chết cũng sẽ bị bọn khác đến thăm mả. Khi Tào Tháo còn sống, đã làm sẵn … 72 ngôi mộ nằm rải rác ở phía bắc Hoàng Hà. Năm 220, Tào Tháo chết, lễ tang làm nhanh gọn lẹ rồi 72 cỗ xe chở áo quan cùng lúc xuất phát từ Hứa Xương tỏa ra các nơi đưa quan tài vào mộ, trong đó xe nào chứa xác thật, đưa đi đâu thì có trời mới biết … Trên netizen xứ Trung có câu chuyện rằng: Năm 2003, giới khảo cổ đã khai quật một ngôi mộ cổ ở Hà Nam, được cho là mộ Tào Tháo. Các nhà khảo cổ trước khi khai quật đã quả quyết đây đích xác là mộ Tào Tháo xịn, nhưng khi đào đến chỉ tìm thấy trong quan tài một bộ xương của trẻ em lên 7, các nhà khảo cổ quả quyết rằng đây là xương của Tào Tháo lúc nhỏ.

Thật ra, chuyện làm mộ giả không phải đến tận thời Tào Tháo mới có, trước đó ngay chính Khổng Tử cũng được xây đến 5 ngôi mộ bởi những học trò của ông hay Bao Thanh Thiên – Bao Chửng sau này cũng có tới 3 ngôi mộ. Bên cạnh việc làm mộ giả thì cạm bẫy trong các hầm mộ cổ Trung Quốc cũng là điều đáng nói: Bên cạnh các loại bẫy chông, bẫy sập như của Ai Cập, người Trung Quốc đã tinh vi và chuyên nghiệp hơn khi xây dựng hệ thống bẫy treo có sử dụng ròng rọc và khóa đoàn bẩy, để cho các loại bẫy sau khi sập xuống có thể trở về nguyên vị trí cũ và … ready for next time. Bên cạnh đó, còn có một loại bẫy khác đặc trưng của Trung Hoa, nó khiến cho một ngôi mộ dù đã bị lộ vị trí từ mấy trăm năm qua vẫn không có kê nào dám xâm phạm hay ít ra chỉ đào vài cuốc xong rồi bỏ đi, đó là mộ cát. Có một vị vương tử thời Tây Chu từ khi còn sống đã bỏ tiền ra để mua cát và lần lượt đem hong trên lửa, cứ như thế năm này qua năm khác, khi hắn qua đời thì dặn người nhà đổ cát xuống huyệt trước rồi bỏ quan tài vào, lại đổ cát lên rồi mới bít lăng mộ. Chỉ mấy trăm năm sau, trộm đã đến tìm nhưng chúng không thể nào đào xuyên qua lớp cát phủ lên trên quan tài được. Vì cát đã được hơ lửa nên rất nhẵn và mịn, khi một chỗ bị đào và múc đi, cát từ các vị trí khác nhanh chóng chảy vào bịt lại lỗ, và lớp cát ấy dày chừng … 13m. Suốt hơn 2000 năm, người ta đếm được có gần 50 hố khoan/đào của bọn trộm mộ để lại bên ngoài lăng nhưng đều phải rút lui trước mật độ dày đặc của lớp cát. Đến những năm 1990, chính phủ vào cuộc bằng xe cơ giới và máy hút cát, máy siêu âm chuyên dụng mới có thể khai quật được mộ này.

Đến đời Hán, một loại hình mộ đặc trưng của người thời này đó là mộ cũi. Mộ cũi được làm từ gỗ lim nguyên khối, ngâm nước 3 năm, lại phơi nắng suốt 1 năm để chống mối mọt rồi mới đem ra xài. Một ngôi mộ cũi thường gồm có 3 ngăn thông nhau: Ngăn trong cùng chứa quan tài, ngăn giữa đựng đồ tùy táng, ngăn ngoài cùng chứa vũ khí. Các thanh gỗ sau khi được chuẩn bị xong sẽ được ghép với nhau thật khít để làm sàn, rồi đến tường bao xung quanh, đến kèo rồi mái, tất cả đều làm bằng gỗ 100%, và không sử dụng cây đinh nào. Khi thanh gỗ cuối cùng lợp trên mái được ghép vào thì người ta lấp đất lại, dưới sức nặng của đất đá, các thanh gỗ sẽ càng xếp chặt lại với nhau. Qua nhiều năm, các thanh gỗ sẽ càng cứng lại, trong một số trường hợp sẽ diễn ra tình trạng hóa thạch, làm các thanh gỗ càng dính liền thành một khối. Khi gặp những mộ cũi dạng này, kẻ trộm vừa lo vừa mừng, mừng vì chắc chắn kẻ nằm trong mộ phải có thân phận rất tôn quý, cơ may hốt được nhiều đồ tùy táng giá trị (chỉ quan lại và quý tộc mới có đủ tiền mà xây mộ cũi, dân thường thì chỉ có bó chiếu đem chôn là xong), nhưng lo là vì nếu không cẩn thận, chỉ cần một thanh gỗ sút ra, cả ngôi mộ sẽ đổ sập luôn, chôn theo cả kẻ xâm nhập… Ở miền bắc Việt Nam mà cụ thể là Hải Dương, đầu thập niên 1990 từng phát hiện một mộ cũi kiểu này, trong đó phần gỗ có thể tích 32x16x3 m. Rất tiếc là khi tới tai chính quyền thì dân chúng xung quanh đã đua sạch số gỗ đem về làm … củi đun, quan tài và đồ tùy táng có hay không và đi đâu mất thì đếu ai biết… các nhà báo chỉ kịp chụp lại vài pô hình của mấy cây gỗ mục còn sót lại để có cái quăng lên báo gây hot một thời.

III. TRỘM MỘ THỜI HIỆN ĐẠI

Trước khi phát hiện lăng mộ của Tần Thủy Hoàng vào năm 1974, chính quyền Trung Quốc đã phát hiện ra lăng mộ của Việt Vương Câu Tiễn vào năm 1961 tại Cối Kê, đất cũ của nước Việt. Trong quan tài, mà đếch biết phải của Câu Tiễn thật hay không, người ta móc ra được một thanh kiếm cổ vẫn còn sáng loáng, không có dấu hiệu bị hoen rỉ. Khi phân tích thành phần, người ta nhận thấy thanh kiếm được rèn từ đồng thau và trong thành phần còn có thêm nhiều nguyên tố kim loại hiếm khác, chứng tỏ nghề rèn ở đời Xuân Thu đã đạt trình độ rất cao, ứng với những truyền thuyết từ đời xưa về thợ rèn lừng danh Âu Dã Tử.

Sang đầu thập niên 80, khi đi phát rẫy làm rừng, những người nông dân ở Quảng Đông đã vô tình phát hiện ra lăng mộ của Triệu Văn Đế, cháu nội Triệu Đà. Điều bất ngờ là lăng mộ Triệu Văn Đế vẫn còn nguyên, chưa hề bị trộm ghé thăm. Trong lăng mộ người ta thu được cả ấn hoàng đế, hổ phù, ngọc ngà, châu báu nhưng quan trọng nhất là bộ áo giáp bằng ngọc bọc bên ngoài xác Triệu Văn Đế. Năm 1988, chính quyền Trung Quốc đã quy hoạch toàn bộ khu lăng mộ Triệu Văn Đế thành một bảo tàng ngoài trời. Gần đây nhất, năm 2004, một lăng mộ của một viên quan thời Chu đã được phát hiện và tiến hành khai quật.

Tuy nhiên, ngày nay việc phát hiện được mộ cổ còn nguyên vẹn ở Trung Quốc là việc còn khó hơn lên trời. Nạn mộ tặc ngày càng hoành hành ở Trung Quốc đã khiến một chuyên gia khảo cổ vào những năm 2000 đã phải cay đắng thốt lên rằng: Mộ cổ ở Trung Quốc bị đào trộm đến 90% và ông ta ngay lập tức bị ăn gạch đá, thậm chí chính quyền còn chất vấn ông ta căn cứ vào đâu mà phát ngôn như vậy? – Ông ta chìm dần vào quên lãng để rồi 10 năm sau, vào năm 2011 ông ta lại tái tuyên bố: Mộ cổ Trung Quốc ngày nay bị đào trộm không còn là 90% nữa mà là 99%. Tại phố cổ vật Hollywood Road ở Hong Kong, hầu hết hàng chưng tại tiệm đều là cổ vật giả hoặc hàng nhái. Hàng xịn luôn cất trong kho. Chủ tiệm chỉ đưa hàng thật khi gặp khách có nhu cầu và thật sự am hiểu. Cảnh sát và chuyên gia cổ vật Trung Quốc đôi khi không biết di sản quốc gia tuồn ra nước ngoài bằng cách nào. Đường Tiêu Cẩm – viên cảnh sát chịu trách nhiệm điều tra vụ trộm cổ vật tại mộ Hiếu Văn Hoàng hậu – kể rằng ông ngạc nhiên như thế nào khi thấy trong quyển Fine Chinese Ceramics and Works of Art của nhà Sotheby’s có ảnh 6 bức tượng nhỏ bị mất tại Tây An mà nhóm điều tra Đường Tiêu Cẩm điều tra từ nhiều tháng. Tòa đại sứ Trung Quốc tại Mỹ cử nhân viên đến văn phòng Sotheby’s ở New York City với yêu cầu rút 6 bức tượng khỏi lô đấu giá số 32. Sotheby’s thoạt đầu từ chối và sau nhiều lần thương lượng họ mới đồng ý, chỉ 20 phút trước khi phiên đấu giá 6 bức tượng bắt đầu…

Trung Quốc hiện có khoảng 200 nhà đấu giá, hầu hết kinh doanh cổ vật. Tại những phiên đấu giá cổ vật ở Luân Đôn cách đây vài năm, hai trong những thương vụ lớn nhất đều là cổ vật châu Á: chiếc bình ngọc bích đời Càn Long được bán với giá 280,000 USD và cái nghiên mực đời Nam Tống 1,2 triệu USD. Đầu năm 2009, Trung Quốc đã giận dữ khi Christie’s tổ chức phiên đấu giá bán hai tượng đồng (một hình thỏ và một hình chuột) bị đánh cắp từ Di Hòa Viên 150 năm trước và từng lọt vào bộ sưu tập cá nhân của nhà thiết kế Yves St. Laurent. Bắc Kinh đã yêu cầu ngưng cuộc đấu giá trên nhưng nó vẫn tiến hành và cuối cùng bán được 15.7 triệu euro mỗi tượng! Hai tượng đầu thú trên là một phần của đài phun nước (gồm tất cả 12 đầu thú tượng trưng 12 con giáp) do các nhà truyền giáo châu Âu xây tại Di Hòa Viên, nơi từng bị thiêu rụi và bị đánh cướp bởi lính Anh-Pháp vào cuối cuộc chiến nha phiến 1860 như một hành động trả đũa cho quyết định hành hình những nhà truyền giáo bởi người Trung Quốc. Tất cả 12 tượng thú của Di Hòa Viên mất tích từ đó. Cách đây vài năm, 5 tượng xuất hiện trong các phiên đấu giá và được người Trung Quốc mua trả lại cho Chính phủ Bắc Kinh trong khi 5 tượng nữa vẫn còn biệt tích biệt tông. Một tên đào mộ chuyên nghiệp tên Phương kể rằng nghề đào mộ tại Lạc Dương đang phổ biến đến mức hầu hết thanh niên khu vực đều tham gia. Thông thường, sau nửa đêm, khi uống rượu thật say, chúng bày lễ và sì sụp khấn vái, trước khi thọc xẻng vào mộ. Có lần, bọn chúng lấy được 5 tượng thú bằng gốm đời nhà Đường (khoảng 10,000 USD/tượng tại thị trường phương Tây). Bọn chuyên nghiệp như hắn được trả trung bình 45 USD/ cho một “công trình”. Thậm chí năm 2005, một cỗ quách bằng đá nguyên khối nặng 27 tấn từ ngôi mộ cổ của Vũ Huệ Phi từng bị chở ra khỏi biên giới Trung Quốc mà không hề bị phát hiện và bán với giá 1 triệu USD. Mất đến 4 năm Bắc Kinh mới điều tra được vụ việc và thương lượng thành công lấy lại cỗ quan tài.

Cuối năm 2014, người ta phát hiện nhiều khu vực trong Khu bảo hộ di chỉ văn hóa Lương Hồng Sơn bị đào trộm với quy mô lớn, nhiều mộ cổ, di tích văn hóa bị phá hoại nghiêm trọng, rất nhiều cổ vật bị lấy mất. Bộ Công an Trung Quốc cùng công an tỉnh Liêu Ninh, thành phố Triều Dương thành lập “Ban chuyên án 11.26” tiến hành điều tra. Kết quả đã bắt được 225 kẻ tình nghi, phá vỡ 12 băng trộm mộ, thu hồi 2.063 cổ vật, trong đó có 248 cổ vật cấp 1 quốc gia, 142 cổ vật cấp 2 quốc gia, 262 cổ vật cấp 3 cùng 1.142 cổ vật khác. Đây là vụ án đạo mộ lớn nhất, có số tội phạm tham gia nhiều nhất, cổ vật được thu hồi nhiều nhất kể từ sau 1949. Diêu Ngọc Trung năm nay 54 tuổi, là người quê Xích Phong, Nội Mông, là con thứ 3 trong một gia đình làm nghề đạo mộ. Hắn ít nói, nhưng nổi tiếng trong giới trộm mộ với các biệt danh “Tổ sư gia”, “Lão đồ cổ”, “Đệ nhất cao thủ quan ngoại”. Từ nhỏ Trung đã tỏ ra rất thông minh, ông bố truyền các kỹ xảo đạo mộ cho người con trai thứ 2 và Trung, nhưng người anh không học được, chỉ mình Trung nắm được các bí quyết gia truyền. Sau đó, Trung đã hành nghề liên tục 30 năm nay, cũng đã có lần bị tóm nhưng lại được thả. Băng đạo mộ của Trung có 28 người, được trang bị các phương tiện mà các nhà khảo cổ thứ thiệt phải mơ ước: xẻng chuyên dụng Lạc Dương, la bàn, bộ đàm cao tần, đèn pin cực mạnh, ống nhòm bội số cao… Trung có biệt tài quan sát địa hình và xem phong thủy, thiên văn là có thể “khóa” địa điểm có mộ cổ, khoanh vùng trong phạm vi khoảng 10m, tự tay bổ nhát cuốc đầu tiên rồi chỉ dẫn cho đàn em đào bới, “trăm phát trăm trúng”. Tuy nhiên, điểm yếu chết người của hắn là tính tham lam, không nghĩa khí. Khi chia cổ vật trộm được, hắn thường lấy phần nhiều và những thứ quý nhất nên nhiều đàn em dần dần bỏ đi làm riêng. Một đệ tử của Trung khai: “Mọi người ra sức đào, nhưng đến lúc lấy được đồ thì ông ta bắt mọi người lên hết một mình ra tay, cho nên đào được thứ gì chúng tôi không biết, bán được bao nhiêu tiền cũng chẳng hay”. Chính vì vậy, ngay em trai Trung cũng bỏ anh đi làm ăn riêng. Diêu Ngọc Trung còn có biệt hiệu “Lão bại gia” bởi thói mê cờ bạc, thua tới hàng trăm triệu tệ. Đã ngồi vào chiếu bạc là thua đến đồng cuối, gán cả cổ vật mang theo người, thua hết mới thôi. “Một tay đạo mộ kiếm bộn tiền, tay kia nướng sạch vào cờ bạc” – đó là nhận xét của cảnh sát điều tra về Diêu Ngọc Trung. Sau khi Trung bị bắt, cơ quan điều tra phát hiện thấy trong tài khoản của hắn đã trống rỗng. Có nhà, vợ con ở Xích Phong nhưng Trung quanh năm không ở nhà, đứa con trai lớn cũng bị hắn đưa vào nghề trộm mộ. Nhà phân tích Vũ Thuật nói rằng, chưa bao giờ thị trường cổ vật tại Trung Quốc bùng nổ bằng lúc này. Chơi đồ cổ là “thú vui tao nhã” thời thượng của giới đại gia mới phất. Các cửa hàng đồ cổ đang mọc lên như nấm tại khu Phan Gia Viên ở thành phố Bắc Kinh – với hoạt động nhộn nhịp ngày cũng như đêm, khác hẳn không khí ảm đạm thời thập niên 1940, khi Mao Trạch Đông cấm chơi sưu tập cổ vật. Thống kê chính thức cho biết, hiện có ít nhất 70 triệu nhà sưu tập cổ vật tại Trung Quốc và nhiều trong số đó chủ yếu “chơi” để kiếm tiền chứ không phải vì mê thưởng ngoạn đồ cổ. Chính bởi thế, nghề đào mộ mới có chỗ làm ăn và giới chức hủ lậu mới có cơ hội hốt tiền (nhiều viên chức cao cấp tham nhũng đã “kiếm thêm” bằng cách tuồn cổ vật ra nước ngoài). Việc kiểm soát thị trường cổ vật còn phức tạp ở chỗ trong nhiều trường hợp, cổ vật không được giao dịch bình thường ngoài thị trường mà chúng âm thầm đi luồn lách trong những con đường hầm tối của văn hóa biếu xén và đút lót. Hối lộ bằng cổ vật đang là mốt “ăn khách”. Nhà sưu tập lừng danh Hồ Văn Cảo (với kho sưu tập hơn 1.500 cổ vật) nói rằng cổ vật đang trở thành “một loại tiền tệ hối lộ mới ở Trung Quốc”!

Nguồn : Chuyện Đông – Chuyện Tây

You may also like

Leave a Comment