BỨC TRANH HANG ĐỘNG CỔ NHẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM: NHỮNG NGHI VẤN VÀ TRANH CÃI

by admin

Trước khi biết dựng lều và nhà, hang động là nơi trú ẩn an toàn giúp con người quây quần bên nhau, bảo vệ lẫn nhau trước những nguy hiểm ẩn nấp trong đêm đen mờ mịt.

Trong suốt những năm tháng còn mông muội, hang động là không gian trú ẩn, sinh hoạt của những con người tiền sử. Lâu dần, họ đã chọn thể hiện những cảm xúc, cuộc sống hay chỉ đơn giản là giải trí bằng những nét vẽ trên vách hang động.

Theo sách “1000 Phát minh & Khám phá vĩ đại”,người ta có lẽ bắt đầu vẽ từ hơn 30000 năm TCN. Những bức tranh ấn tượng trong hang động đã bị người ta bỏ quên cho đến chi một cô bé cùng bố của mình phát hiện ra những bức tranh ở một hang động tại Altamira, Tây Ban Nha cùng bố. Cô bé nhận ra những vết tích trên đầu mình chính là những bức tranh vẽ động vật. Sau đó, những bức tranh có niên đại lâu đời hơn đã được tìm thấy ở Chauvet Pháp. Những họa sĩ vẽ nên bức tranh này đã chế nên những công cụ như cọ vẽ, sơn ,… trước khi có thể bắt đầu vẽ.

Ở nước ta, những di tích nghệ thuật, khắc, vẽ trên hang động bắt đầu được khám phá từ thời ký Pháp thuộc. Những bức tranh khắc tối cổ trên vách đá ở 2 hang Đồng Nội (Hòa Bình) và Thượng Phú (Quảng Bình) đều do nữ tiến sĩ Madeleine Colani phát hiện ra khoảng những năm 1929-1930. Bà và các đồng nghiệm tại Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp xếp những hình khắc này vào Văn hóa khảo cổ Hòa Bình với niên đại vào khoảng 10000 năm về trước.

Xét về tổng thể đây không hẳn là một bức tranh vì đó chủ là những nét chạm khắc vào đá và không có tô màu. Những hình khắc ở hang Đồng Nội không hình thành một bức tranh hoàng chỉnh mà chỉ là những nét chạm khắc mặt người, thú riêng lẽ nhưng có tính hình tượng cao, dễ nhận diện nên thu hút được sự chú ý. Ngược lại, hình khắc ở hang Thượng Phú không rõ hình tượng, ít được chú ý nhưng có bố cục tổng thể gần với bức tranh hơn.

Hang Đồng Nội có tất cả 4 hình, trong đó có 1 hình nửa mặt người, 2 hình mặt người đầy đủ mắt-mũi-mồm, đường viền chu vi mặt, nhìn theo hướng chính diện, mọc thẳng trên đỉnh đầu là nét đục lõm hình chữ Y… Có người vui tính đoán là hình “ăng ten râu” kiểu người ngoài trái đất, có người đoán là kiểu sừng thú… Bà Colani (1927) và các nhà khảo cổ Przyluski (1932), Karlgren (1942) cho rằng đó là các hình “người-hươu” thể hiện đạo shaman nguyên thủy của người cổ thời văn hóa Hòa Bình.

Hình thứ tư trong hang Đồng Nội là hình kiểu mặt thú: râu dê, mắt mở tròn xoe, mũi kiểu lợn với 2 lỗ mũi hướng thẳng về phía trước, phía trên rất giống đôi lông mày đậm nét nhưng có người bảo có thể đó là cặp sừng cong. Có một hiệu quả tạo hình đáng chú ý: trong khi 2 mặt người rưỡi trông vô cảm thì mặt con thú này lại sinh động – nó luôn có vẻ hân hoan, mắt tròn xoe kinh ngạc, miệng cười ngoác…

Hang Thượng Phú có 2 cụm hình khắc nét lõm mà nếu căn cứ vào cách sắp xếp bố cục kiểu mỹ thuật thì ta có thể coi đó là 2 “bức tranh”. Chính người viết bài này, cách đây một số năm đã giải mã được 1 trong 2 bức: đó là cảnh chó săn hươu – một phương thức đi săn của người Việt cổ.

Phía trên cùng là một hình con hươu đang chạy từ phải sang trái. Bên dưới, góc phải ló lên 2 đầu chó săn với đôi tai dựng đứng điển hình kiểu chó. Không thấy cả thân và chân 2 con chó này, có lẽ “dụng ý tác giả” cho chúng náu mình trong cỏ cây?

Nhưng quyết liệt nhất, ở giữa tranh, là một con chó đang phi sát bên cạnh chân hươu – hướng chạy cùng chiều, chúc xuống tạo cảm giác nó đang mở hết tốc lực – bức chạm vì vậy truyền cảm được hơi thở của cuộc sống dù chỉ toàn những nét lõm chưa hoàn hảo.

Thuở mới được tạc, trong ánh lửa bập bùng soi, chắc bức chạm còn sinh động hơn nhiều trong mắt các thành viên của bộ lạc nguyên thủy. Bức chạm thứ 2 của hang Thượng Phú cho đến nay vẫn chưa ai giải mã được, nó gồm toàn những đường nét trừu tượng và bí ẩn nhưng chắc chắn do con người tạo ra chứ không phải ngẫu nhiên của thiên nhiên.

Tranh cãi xoay quanh niên đại bức tranh

Một lập luận được đưa ra đó chính là sự gắn kết giữa tranh và nếp sống của người Việt cổ.

Có khá nhiều bằng chứng cho nhận định trên: những hình trang trí đúc trên rìu đồng Đông Sơn. Hiện có nhiều rìu đồng Đông Sơn trong các bảo tàng và các sưu tập tư nhân. Một số đáng kể rìu đồng được trang trí theo công thức: diềm hoa văn kỷ hà (hình học) bao quanh theo hướng chạy song song với các cạnh của lưỡi rìu; ở giữa là một con chó đang dũng cảm chặn 2 con hươu lại. Sát bên trên có hình 2 người – thợ săn thời Đông Sơn đang reo hò trên chiếc thuyền độc mộc để gây áp lực dồn đuổi hươu. Cảnh tượng thật là sinh động dù các đường nét buộc phải cô đọng: không có chỗ để vẽ vời miêu tả dài dòng. Căn cứ vào rất nhiều hình “chó săn hươu” trên rìu đồng cổ, nhiều người tin rằng đây là phương thức săn thú cổ truyền của tổ tiên ta.

Tuy nhiên có giả thuyết đưa ra lật lại vấn đề: chắc gì bức chạm cảnh săn hươu trên vách đá đã là tối cổ? Nếu nó được chạm chỉ cách đây mấy thế kỷ thì sao? Bởi vẫn còn đó, ngay tại miền Tây tỉnh Quảng Bình có nhóm người Rục chỉ mới được bộ đội tìm thấy năm 1959, hướng dẫn họ rời khỏi hang đá, lập làng, dựng nhà, làm nương, trồng lúa… Nhưng họ vẫn ưa thích sống trong hang hơn nên cứ đến mùa rẫy họ lại rời làng vào hang ở gần rẫy. Trước 1959 họ chỉ quen săn bắt – hái lượm. Và biết đâu chính họ từng khắc cảnh đi săn trên vách hang Thượng Phú chỉ vài thế kỷ trước? Chưa ai dám khẳng định hay bác bỏ giả thuyết này. Theo các nhà nghiên cứu, người Rục nói một thứ tiếng Việt rất cổ, dân tộc này đã tách ra khỏi nhóm Việt-Mường từ khoảng giữa thời Bắc thuộc.

Một nghi vấn khác được đặt ra là câu hỏi về kỹ thuật cũng như công cụ chạm khắc.

Các nét lõm trên vách hang Thượng Phú có độ sâu khoảng 0,3 đến 0,5cm trong khi ở hang Đồng Nội thì sâu hơn, có mấy chỗ sâu tới 1,5cm, thậm chí 2cm. Nét đục trên vách măng đá hang Đồng Nội rộng hơn nét trên vách hang Thượng Phú. Như vậy đã có 2 kỹ thuật đục nét lõm khác nhau. Có người đặt câu hỏi: vậy người xưa lấy gì để đục nét vào vách đá? Dùng đá cứng (thời đồ đá chỉ có dụng cụ bằng đá mà thôi) miết lõm dần lên vách hang mềm hơn? Cũng có thể nhưng rất lâu đấy.

Tiến sĩ Nguyễn Việt lại cho rằng người xưa đã dùng đục kim loại để tạc nên nét sâu hơn, đôi chỗ rộng bản hơn. Vách măng đá là đá vôi non nên cũng khá mềm, dễ đục. Cũng theo ông thì hình chạm hang Đồng Nội chỉ khoảng thế kỷ II TCN, do tàn quân Âu Lạc tạo ra khi làm lễ cầu cúng trên đường chạy vào Thanh Hóa qua ngả Hòa Bình sau khi nước Âu Lạc bị Triệu Đà diệt.

Hiện nay, tiêu bản của những bức tranh vẫn được lưu giữ và trưng bày như những hiện vật thú vị. Tranh cãi về niên đại của những bức tranh này vẫn chưa dừng, còn các bạn nghĩ sao ?

Source:

1000 Phát minh và Khám phá vĩ đại

TRITHUCVN

You may also like

Leave a Comment