Một khi Rockefeller có ý tưởng, Chúa sẽ trở thành động lực lớn lao thôi thúc ông hành động, và giờ đây, ông cho rằng Standard Oil phải luôn đảm bảo nguồn cung dầu thô. Sau khi Frasch xác nhận giá trị của dầu thô Lima, tờ-rớt đã tham gia sản xuất dầu với toàn bộ nguồn lực khủng khiếp mà họ có trong tay.
VẤN ĐỀ CỦA TỜ-RỚT – Trích đoạn nằm trong cuốn sách Titan- Gia tộc Rockefeller
25 năm sau phát hiện của Drake, không mỏ dầu lớn nào được phát hiện ở Mỹ nằm ngoài biên giới Pennsylvania, vì vậy, chưa thể khẳng định rằng đế chế của Rockefeller đã được xây dựng trên nền đất khô hay cát lún. Năm 1885, khi có người nói với John D. Archbold rằng vết tích dầu mỏ đã được tìm thấy ở nơi mà về sau trở thành Oklahoma, Archbold đã phản ứng với sự hoài nghi.
“Ông điên rồi hả?” ông nói với giọng điệu chế giễu. “Tại sao ư? Tôi sẽ uống cạn từng ga-lông dầu được sản xuất ở phía Tây Mississippi!” Dù một lượng nhỏ dầu thô đã được bơm lên ở California và Kentucky, nhưng một chuyên gia nghiêm túc quả quyết với Archbold rằng cơ hội tìm kiếm các mạch dầu phong phú khác dựa trên quy mô của khu mỏ Bradford thường chỉ là 1%; Archbold sợ hãi đã bán ra một số cổ phiếu của Standard Oil. Khi viết thư cho Rockefeller vào tháng 9, ông tỏ ra ủ rũ: “Chúng tôi không gặp vấn đề gì nghiêm trọng liên quan đến phương pháp sản xuất trong mùa hè này, và vào mùa đông kế tiếp, chúng tôi sẽ phải chứng kiến sự sụt giảm mạnh ở khu mỏ Bradford và Allegheny trước đây, bởi vậy, chúng tôi vẫn chưa đạt được phần lớn sản lượng.” Việc kinh doanh dầu mỏ ở Mỹ dường như đang phải đối diện với sự sụp đổ quá sớm trong thời điểm này.
Rockefeller và các cộng sự từ lâu đã bị ám ảnh bởi hai cơn ác mộng tương phản: hoặc là dầu sẽ cạn kiệt, gây đình trệ mạng lưới đường ống và các nhà máy lọc dầu, hoặc quá dư thừa dẫn đến tình trạng sụt giảm giá bán. Tại một cuộc họp đầy hoang mang của ban điều hành diễn ra vào đầu những năm 1880, họ thậm chí còn gợi ý rằng Standard Oil nên từ bỏ ngành kinh doanh này và chuyển sang lĩnh vực khác ổn định hơn. Sau khi yên lặng lắng nghe những lời bạc nhược như thế, Rockefeller đứng lên, tay chỉ lên trời với giọng trầm hùng:
“Chúa sẽ quyết định việc này.” Rockefeller thường mường tượng ra một kế hoạch vĩ mô trong mọi việc và bị thuyết phục rằng Thượng Đế đã chôn dầu trên Trái đất nhằm một mục đích nào đó. Nhìn lại, điều có vẻ khác thường là Standard Oil – đấng toàn năng trong ngành lọc dầu, vận chuyển và phân phối – chỉ sở hữu bốn cơ sở sản xuất vào đầu những năm 1880. Hàng nghìn nhân viên Standard Oil chưa từng nhìn thấy giếng dầu. Tại sao Rockefeller lại không nắm giữ các mỏ dầu và làm chủ hoàn toàn ngành công nghiệp? Chúng ta phải nhớ rằng trong những năm hình thành, hoạt động kinh doanh của Standard đã trải qua thặng dư hơn là thiếu hụt, cho phép Rockefeller ngồi lại và quan sát các nhà sản xuất hạ giá bán trong cuộc cạnh tranh hỗn loạn. Ông được hưởng lợi lâu dài từ việc kề vai hợp tác trong ngành lọc dầu và cạnh tranh trong sản xuất. Tài xử trí khéo léo về mặt chính trị cũng buộc ông phải tiến những bước thận trọng.
Đến cuối năm 1884, Archbold đã quyết liệt phản đối mọi bước tiến sản xuất khiêu khích quá mức: “Tôi nghĩ rằng nếu Standard Oil tiến theo trào lưu, nó sẽ tạo ra món ăn mới cho những tên mị dân, chính trị gia, các tờ báo và những tiếng hú hét đủ kiểu của mọi hạng người.”
Tại sao ngay sau đó lại xảy ra một sự thay đổi chính sách cấp tiến trong một hoặc hai năm? Một phần, điều này xuất phát từ việc tờ-rớt đã bước chân vào lĩnh vực khí đốt tự nhiên, mà đã đặt nó vào lĩnh vực kinh doanh khoan dầu dù muốn hay không; nhưng lý do thuyết phục hơn là Standard Oil đã xây dựng một bộ máy toàn cầu khổng lồ với cơn khát dầu thô dữ dội. Khi các khu mỏ ở Pennsylvania đã cạn kiệt, Rockefeller lo rằng ông sẽ phải tìm đến dầu thô của Nga, và có vẻ chắc chắn người Nga sẽ lợi dụng sự kiểm soát các mỏ dầu của mình nhằm làm suy yếu hoặc thậm chí tiêu diệt Standard Oil. Đến năm 1884, Rockefeller vì lo ngại đã quấy rầy các đối tác của mình nhằm tạo ra một lượng dự trữ dầu thô vượt qua nhu cầu trước mắt của họ, và đầu tư vào một số cơ sở sản xuất tại phía Tây Virginia. Ông đã cảnh báo một đồng nghiệp hoài nghi: “Chúng ta phải luôn đảm bảo có được một khối lượng lớn nguyên liệu thô, và tốt hơn hết, lượng dự trữ này phải nhiều hơn mức rủi ro trong cạnh tranh với người Nga để không bị hất cẳng khỏi cuộc chơi.”
Sau đó, một bước ngoặt quan trọng không kém gì khám phá của Drake đã xuất hiện. Táng 5 năm 1885, một nhóm nhỏ các nhà khai thác, trong khi tìm kiếm khí đốt tự nhiên ở Tây Bắc Ohio, đã khoan trúng một mỏ quặng thay thế dầu mỏ. Điều này đã đẩy ngành công nghiệp dầu mỏ vào sự náo động, cung cấp bằng chứng không thể chối cãi rằng những khu mỏ lớn tồn tại trên khắp nước Mỹ, chứ không chỉ có ở Pennsylvania. Vào cuối năm đó, hơn 250 giàn khoan đã mọc lên xung quanh thị trấn Lima, tràn qua cả ranh giới Indiana. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, bởi hàm lượng hóa học trong dầu thô Lima đã gặp phải vấn đề chất lượng khó xử lý đến nỗi có nguy cơ hủy hoại giá trị của nó. Chẳng hạn như dầu mỏ ở đây chứa ít dầu hỏa hơn dầu mỏ ở Pennsylvania và loại dầu hỏa này cũng dính một lớp muội đèn.
Thậm chí phiền phức hơn, hàm lượng lưu huỳnh cao còn ăn mòn máy móc và tỏa ra thứ mùi chết chóc. (Dầu thô Pennsylvania có chứa gốc parafin.) Một tờ báo đã viết: “Sai lầm chính yếu được tìm thấy trong dầu ở Ohio là nó có mùi như chồn hôi và chỉ có giá 40 xu một thùng.” Đối với một mặt hàng gia dụng, mùi hôi này là nhược điểm chết người, và phương pháp chuẩn làm sạch dầu thô bằng axit sulfuric không đủ để khử mùi.
Người ta cho rằng nguồn cảm hứng tuyệt vời nhất của Rockefeller là niềm tin của ông vào các mỏ dầu ở Ohio-Indiana – một trong những tia sáng le lói của nguồn sức mạnh to lớn đã biến ông trở thành huyền thoại kinh doanh. Ông từng nói: “Với chúng tôi, không thể khai thác sản phẩm tuyệt vời này rồi lãng phí và vứt bỏ nó; nên chúng tôi đã thử nghiệm mọi quá trình để tận dụng nó.”⁷ Để giải quyết vấn đề này, vào tháng 7 năm 1886, Rockefeller đã mời nhà hóa học nổi tiếng người Đức Herman Frasch và đưa ra một yêu cầu đơn giản: Khử mùi trong dầu thô Lima và biến nó thành một loại hàng hóa có thể tiêu thụ. Trong khi Frasch nghiên cứu vấn đề đó, hội đồng quản trị Standard Oil phải đối mặt với một thế lưỡng nan tột độ: Họ nên coi Frasch đã thành công và mua lại các khế ước khổng lồ dọc theo biên giới Ohio-Indiana; hay nên chờ đợi cho đến khi Frasch hoàn thành bước này và có nguy cơ đánh mất quyền sở hữu tốt nhất?
Dù thận trọng, nhưng Rockefeller có thể đưa ra tầm nhìn táo bạo và đặt cược vào những canh bạc khổng lồ. Giờ đây, ông đã chuẩn bị đặt cược một lượng lớn vào dầu Lima, một quyết định thử thách niềm tin của ông trong việc quản lý dựa trên sự đồng thuận, vì một nhóm bảo thủ do Charles Pratt đã ngoan cố chống lại ông. Rockefeller luôn chế giễu Pratt là kẻ nhu nhược và nhút nhát, một “con người nhỏ bé“ gần như chẳng đóng góp được gì ngoài lĩnh vực marketing. Tuy nhiên, Rockefeller cũng phải hứng chịu những cuộc tranh luận kéo dài về dầu thô Lima, tạo ra “một cuộc tranh luận không ngừng trong Hội đồng Quản trị của Công ty Standard Oil, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, từ năm này qua năm khác.”
Là người đàn ông gầy gò với bộ râu gọn ghẽ và năng nổ trong nhà thờ Baptist, Pratt cũng có phong cách khắt khe như Rockefeller. Phương châm ưa thích của ông là “Không được lãng phí thời gian hay tiền bạc.” Là nhà tài trợ cho nhiều hoạt động từ thiện, Pratt là Chủ tịch đầu tiên và cũng là nhà tài trợ chính của Viện Hàn lâm Adelphia tại Brooklyn, sau đó ông đã trao tặng vài triệu đô-la để thành lập Học viện Pratt, nơi đào tạo các lớp thủ công, nghệ thuật và kinh tế trong nước. Dù có nhiều điểm tương đồng với Rockefeller, nhưng Pratt làmột nhà điều hành nhút nhát, thiếu sự táo bạo của Rockefeller và thường cảm thấy bị xem thường. Giờ đây, ông đã biến cuộc tranh luận Lima thành một cuộc trưng cầu ý kiến về sự nhạy bén trong kinh doanh của chính ông. Tại mỗi cuộc họp, khi Rockefeller đề xuất mua lại khế ước ở Ohio, Pratt và phe cánh của ông đã phản đối. Khi bị Rockefeller nhạo báng, họ “đã phản đối trong lo sợ”. Cuối cùng, để phá vỡ thế bế tắc, Rockefeller đã chơi một canh bạc khó tin. Tại một cuộc họp hội đồng quản trị, sau khi Rockefeller đưa ra định mức đầu tư vào Lima, Pratt đã mất bình tĩnh, ngẩng đầu và hét lên: “Không được!” Khi ấy, Rockefeller đáp lại đầy lạnh lùng: “Tôi sẽ thực hiện những cải cách đó bằng tiền riêng của tôi và bảo lãnh nó trong hai năm.” Ông đã khiến các đồng nghiệp kinh ngạc trước cam kết lên đến 3 triệu đô-la của mình – khoảng 47 triệu đô-la vào năm 1996. “Hết thời hạn đó, nếu công ty thành công, mọi người có thể hoàn trả cho tôi. Nếu thất bại, tôi sẽ chấp nhận mất trắng.” Có thể do ấn tượng trước cách giải quyết bình thản của Rockefeller hoặc chợt nhận ra bản thân đã thua, Pratt đã đầu hàng: “Nếu đó là cảm nhận của ông, chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện. Tôi đoán tôi có thể mạo hiểm nếu ông có thể.”
Standard Oil đã chi hàng triệu đô-la để mua quyền sở hữu dầu mỏ, đóng toa bồn chứa và lắp đặt đường ống ở Lima. Daniel O’Day chưa bao giờ nhìn thấy mỏ dầu nào mà không muốn lắp đặt song song các đường ống, và khi tờ-rớt bắt đầu thành lập Công ty Đường ống Buckeye nhằm thu lấy dầu thô Lima vào tháng 3 năm 1886, O’Day đã thăm dò các nhà sản xuất bằng vũ lực thay vì khéo léo nói rằng họ phải chuyển cho Buckeye toàn bộ lượng dầu thô của mình. Bất kỳ nhà khai thác nào dò ra dầu đều bị một trong những đại diện của O’Day tiếp cận. Như ông đã nói với Rockefeller: “Tôi tin rằng việc này là vì lợi ích tốt nhất của công ty chúng ta, ngay khi phát hiện ra bất cứ sự phát triển mới nào của dầu mỏ hoặc khí đốt, chúng ta sẽ ngay lập tức cử một người tới đó và anh ta ở lại để sẵn sàng nắm bắt bất cứ điều gì có thể xảy ra.” Với sức mạnh không thể cưỡng lại, O’Day đã sớm thu mua 85% lượng dầu ở Lima. Dù chưa có thị trường sẵn có cho “dầu hôi”, tờ-rớt đã mua từng thùng dầu từ các nhà sản xuất và đến năm 1888, họ đã có hơn 40 triệu thùng trong bể chứa. Đến thời điểm đó, chất lỏng có mùi hôi này được bán với giá 15 xu mỗi thùng.
Trong canh bạc của mình, Rockefeller không tin tưởng hoàn toàn vào Chúa và các nhà hóa học Standard Oil, nên đã nghiên cứu một ứng dụng mới cho dầu hôi và tìm thấy câu trả lời ở dầu nhiên liệu. Tờ-rớt đã cử các đội nhân viên bán hàng và nhân viên kỹ thuật đến thuyết phục các tuyến đường sắt đốt dầu thay than ở đầu máy xe lửa và gợi ý các khách sạn, nhà máy và nhà kho chuyển từ lò sưởi than sang dầu. Dù nỗ lực này đã mở rộng mạnh mẽ, nhưng kết quả kinh doanh thu được vẫn không bằng quy mô của ngành công nghiệp dầu hỏa và chỉ giảm nhẹ áp lực đè nặng lên Herman Frasch trong phòng thí nghiệm.
Với biệt danh Người Hà Lan Hoang dã (Wild Dutchman), Frasch tự đắc về việc tuân theo khuôn mẫu của nhà khoa học lập dị. Là một người thấp lùn bộc trực, ông di cư đến Mỹ ngay sau Nội Chiến. Vào giữa những năm 1870, Rockefeller đã đưa ông đến Cleveland, nơi ông hoàn thành công trình tuyệt vời với parafin, sản xuất một loại sáp mới cho các nhà sản xuất nến của Anh và tìm ra thành phần mới cho ông trùm kẹo cao su ở Cleveland, William J. White. Sau đó, Frasch bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình ở Canada và được cấp bằng sáng chế cho quá trình loại bỏ lưu huỳnh khỏi dầu chua Ontario. Vì nhiều mỏ dầu ở Ontario nằm bên kia hồ Erie từ phía Tây Bắc Ohio, nên Rockefeller chắc hẳn sẽ có khả năng thành công cao khi thuê Frasch nghiên cứu một vấn đề tương tự. Tháng 2 năm 1887, Frasch đã thành công một phần với dầu thô Lima khi dùng oxit đồng để loại bỏ lưu huỳnh. Sau đó, vào ngày 13 tháng 10 năm 1888, Feargus Squire đã gửi điện cho Rockefeller về tin tức lịch sử mà ông luôn háo hức chờ đợi trong hai năm: “Chúng tôi rất vui mừng khi thông báo cho ông rằng bằng cách thử nghiệm phương pháp Frasch, chúng tôi đã thành công trong việc sản xuất loại dầu có thể bán được.”
Thành công của Frasch hơn hết đã chứng minh được danh tiếng của Rockefeller như một nhà tiên tri huyền bí về xu hướng công nghiệp. Nếu Frasch không tìm ra cách sử dụng dầu thô Lima, sự thiếu hụt nghiêm trọng dầu hỏa ở Mỹ sẽ nảy sinh giữa sự cạn kiệt dầu thô ở Tây Pennsylvania và sự bùng nổ ở Texas và Kansas vào đầu những năm 1900. Trong vòng 15 năm, sáng chế của Frasch đã tạo ra lợi nhuận đáng kinh ngạc cho Rockefeller và Standard Oil, đồng thời thúc đẩy vị thế của các nhà khoa học nghiên cứu trong toàn ngành công nghiệp. Những người kinh doanh dầu đầu tiên là những công nhân trên giàn khoan dầu tự thân làm nên, có thành kiến chống lại khoa học và nghiêng về trực giác; trái lại, Rockefeller đã mang đến tinh thần lý trí cho kinh doanh, và đây được coi là một trong những đóng góp lớn nhất của ông. Như triết gia Alfred North Whitehead đã nói: “Phát minh vĩ đại nhất của thế kỷ XIX là phát minh về phương pháp phát minh.” Khi Frasch giải được câu đố về dầu thô Lima, có lẽ ông là nhà hóa học dầu khí được đào tạo duy nhất ở Mỹ. Cho đến khi về hưu, Rockefeller đã có một phòng thí nghiệm kiểm tra ở mỗi nhà máy lọc dầu và thậm chí một trong số đó còn nằm ở tầng cao nhất của số 26 Broadway. Đây là cách ông biến Standard Oil trở thành hình mẫu của tổ chức công nghiệp hiện đại, và sự phát triển của nó được đảm bảo bởi các ứng dụng khoa học vững chắc.
Một khi Rockefeller có ý tưởng, Chúa sẽ trở thành động lực lớn lao thôi thúc ông hành động, và giờ đây, ông cho rằng Standard Oil phải luôn đảm bảo nguồn cung dầu thô. Sau khi Frasch xác nhận giá trị của dầu thô Lima, tờ-rớt đã tham gia sản xuất dầu với toàn bộ nguồn lực khủng khiếp mà họ có trong tay. Năm 1889, một ủy ban sản xuất được thành lập dưới sự bảo trợ của John D. Archbold, và họ đã chi tiền với tốc độ chóng mặt tới mức trong vòng hai năm, họ đã giải ngân lên đến 20 triệu đô-la – một con số đã kéo căng ngân sách Standard Oil, khiến Charles Pratt phải rên xiết. Tuy nhiên, niềm tin của Rockefeller đã được chứng minh, khi khu mỏ Ohio-Indiana đã vượt qua nền công nghiệp suy yếu của Pennsylvania và trở thành nơi đứng đầu về dầu thô của cả nước Mỹ trong những năm 1890.
Hồi sinh nhờ Lima, Rockefeller đã bắt tay vào việc mua lại vô độ đến mức chưa từng có tiền lệ nào như vậy trong ngành công nghiệp. Nuốt trọn Union Oil và ba công ty sản xuất lớn khác vào năm 1890, ông đã tiếp quản 300.000 mẫu đất ở Pennsylvania và Tây Virginia – một diện tích khổng lồ bao trùm toàn bộ các quận. Người đàn ông đáng sợ nhất Vùng đất Dầu giờ đây đã trở thành nhà bất động sản kiêm nhà sản xuất đầy ảnh hưởng. Một tờ báo lo âu viết: “Cho đến nay, phần lớn sự chú ý của Con bạch tuộc to lớn đã hướng đến việc nghiền nát mọi sự chống đối trong ngành lọc dầu. Tỏa thuận mới nhất này cho thấy họ đã bắt đầu đè bẹp các nhà sản xuất dầu thô và nắm quyền kiểm soát tài sản của những người này.” Đến năm 1891, Rockefeller đã giành quyền kiểm soát phần lớn khu mỏ Lima và một phần tư sản lượng dầu của Mỹ. (Sản lượng dầu thô của tờ-rớt tại Mỹ đã đạt tới đỉnh điểm là 33% vào năm 1898.) Bằng cách thu hẹp phạm vi cạnh tranh trong sản xuất dầu, động thái này đã giúp đẩy nhanh thời gian đánh giá chính trị cho Standard Oil.
Trong những năm sau đó, việc phát hiện các khu mỏ mới ở trong và ngoài nước Mỹ đã tạo cơ hội cho các đối thủ cạnh tranh mới nổi, nhưng hành động kiểm soát hoàn toàn và nhanh chóng của tờ-rớt đối với khu mỏ Lima hiển nhiên đã giúp nó kiểm soát dầu mỏ của nước Mỹ vào những năm 1890. Đối thủ cạnh tranh lớn duy nhất của họ là Công ty Sun Oil, được thành lập bởi J. N. Pew vào năm 1886. Vào mùa xuân năm 1891, Archbold tới thăm Lima, phóng tầm mắt của người sở hữu khắp các khu mỏ kéo dài hơn 160km, và hả hê gửi thư cho Rockefeller: “Không còn nghi ngờ gì nữa, ở thời điểm này, chúng ta sở hữu phần nhiều lượng giếng dầu dự trữ của khu vực đã xác định, và nhất định sẽ sản xuất được dầu ở khu mỏ Ohio với giá rẻ hơn bất cứ ai; đồng thời sở hữu các bộ phận rộng lớn của những khu vực có thể khoan xuống một cách thận trọng như chúng ta luôn làm.” Giờ đây, Rockefeller đã gặt hái được những thành công ngoạn mục trong sản xuất, ông ra chỉ thị cho Archbold nắm lấy bất cứ thứ gì có thể xoay chuyển lợi nhuận dầu thô ở mức 50 xu một thùng. Ông gửi điện: “Nếu được, hãy mua mọi thứ chúng ta có thể.” Trong cuộc chạy đua thăm dò và sản xuất này, Rockefeller đã tạo ra mô hình tích hợp theo chiều dọc dành cho những gã khổng lồ dầu mỏ vốn sẽ bành trướng trên toàn cầu trong thế kỷ XX.
Việc phát hiện ra dầu ở Ohio đã vẽ lại bản đồ thế giới của Standard, bởi thật vô lý khi vận chuyển dầu thô tới các nhà máy lọc dầu phía Đông chỉ để vận chuyển dầu hỏa trở lại thị trường miền Trung Tây và Viễn Tây. Năm 1886, trước cả khi Frasch hoàn thành công việc của mình, O’Day đã thăm dò phía Tây Bắc Ohio để tìm kiếm một vị trí lọc dầu thích hợp và lựa chọn thành phố Lima xinh đẹp, nơi có bốn tuyến đường sắt đi qua. Sự xuất hiện của các nhà máy lọc dầu khổng lồ ở Lima đã đẩy nhanh tốc độ sụp đổ của các trung tâm lọc dầu ở Cleveland và Pittsburgh, và vào năm 1896, Standard Oil đã xóa bỏ nhà máy lọc dầu lớn nhất Cleveland.
Nhà máy lọc dầu ở Lima chỉ là phần mở đầu cho sự kiện chính ở miền Trung Tây. Táng 6 năm 1889, tờ-rớt đã thành lập Standard Oil ở Indiana, nơi sẽ xây dựng nhà máy lọc dầu hàng đầu của Mỹ tại Whiting, Indiana, cách trung tâm thành phố Chicago 27km. Trong suốt chuyến đi vào năm 1891, Archbold, run sợ trước tầm quan trọng của chủ trương này, đã nói với Rockefeller về khả năng xử lý 36.000 thùng dầu thô hằng ngày của nhà máy này là “gần như không tưởng”. Nhà máy lọc dầu này vẫn là một kỳ quan của dầu mỏ thế giới trong nhiều năm. Tại Whiting, Tiến sĩ William M. Burton đã đưa ra một khám phá mang tính cách mạng về phương pháp “phân tách” dầu mỏ, giúp tăng sản lượng xăng – tiền đề quan trọng của thời đại ô tô.
Để tẩy dấu tích của dầu thô Lima, Standard Oil phải tốn kha khá thời gian, bởi chỉ cần một lượng lưu huỳnh trong dầu hỏa đủ lớn cũng sẽ làm tắc nghẽn các ống khói và đèn trong thời tiết ẩm ướt. Trong một lá thư bí mật gửi tới Rockefeller, Archbold đã thú nhận rằng đây là lần đầu tiên đối thủ cạnh tranh của họ tung ra một sản phẩm cao cấp. Tờ-rớt giờ đây đã là nạn nhân của chính những thủ đoạn bẩn thỉu của mình. Vào thời điểm sau khi dầu mỏ Ohio được phát hiện, nhưng trước thời điểm Rockefeller chiến thắng Pratt, Standard đã thiết kế một chiến dịch tuyên truyền nhằm thuyết phục người tiêu dùng rằng dầu Lima có chất lượng kém hơn dầu Pennsylvania. Chiến lược này giờ đây đã trở thành một chiến lược “gậy ông đập lưng ông”, Archbold nói với Rockefeller: “Việc đó là cần thiết, cho đến khi định kiến này biến mất, điều đáng lo nhất là phải đảm bảo mọi lô hàng từ Lima và Whiting không thuộc diện khiếu nại hợp pháp.” Những lời vu khống ban đầu đã được biện hộ một cách khó khăn.
* * *
Khi Standard Oil kiểm soát hoàn toàn ngành công nghiệp dầu mỏ, nhiều ngươi dân đã lo sợ trước quy mô khổng lồ, phương pháp tàn bạo và sự tăng trưởng nhẫn tâm của nó. Nó đã trở thành biểu tượng cho mọi lực lượng đáng lo ngại đang tái định hình nước Mỹ. Nó là “mẹ của các công ty độc quyền lớn hiện đang cải trang dưới cái tên mới được tìm ra của ‘Tờ-rớt’,” một nhà báo phát biểu, và nó được xem như là sự kết tụ mới của quyền lực kinh tế. Một hệ thống kinh doanh dựa trên doanh nghiệp tư nhân đang tạo ra sự kết hợp của các quy mô khổng lồ, có vẻ sẽ đe dọa đến chủ nghĩa cá nhân đó. Ngoài ra, ngành công nghiệp hiện đại không chỉ đe dọa thương mại quy mô nhỏ mà còn góp phần tạo nên một chế độ chuyên chế xấu xa, gây nguy hiểm cho bản thân nền dân chủ khi các tập đoàn khổng lồ làm lu mờ chính phủ như là lực lượng năng động nhất trong xã hội Mỹ.
Là người đứng đầu sự hợp nhất này, Rockefeller là nhân vật tượng trưng cho Thời Đại Vàng, do đó ông phải hứng chịu mọi chỉ trích. Ông đã theo dõi chặt chẽ những diễn biến chính trị và cảnh giác cao độ trước bất kỳ mối đe dọa tiềm ẩn nào đối với lợi ích kinh doanh của mình. Tuy nhiên, trong những khoản đóng góp chiến dịch cá nhân, ông được xem như một nhà tài trợ keo kiệt, và thậm chí một số chính trị gia đã cảm thấy phật lòng với món quà nhỏ mọn của ông. Bảng lương bí mật của Standard Oil lại là một vấn đề khác, và Rockefeller luôn mạnh tay chi tiền trả lương để nhân viên toàn tâm toàn ý hoàn thành công việc.