Hittite đế quốc bị lãng quên thường được gọi là Hatusha (Ḫa-at-tu-ša / ????) có gốc là người Anatolia cổ đại đã thành lập một đế chế tập trung tại Hattusa ở Anatolia Bắc Trung Đông khoảng năm 1600 TCN. Đế chế này đạt đến đỉnh cao vào giữa thế kỷ 14 trước Công nguyên theo Suppiluliuma I, khi nó bao trùm một khu vực bao gồm hầu hết Anatolia cũng như các phần của vùng phía bắc Levant và Mesopotamia trên. Giữa thế kỷ 15 và 13 TCN đế chế Hittite đã xung đột với đế chế Ai Cập, Đế quốc Assyrian Trung cổ và đế chế Mitanni để kiểm soát vùng Cận Đông. Người Assyria cuối cùng đã nổi lên như là quyền lực thống trị và sáp nhập phần lớn đế quốc Hittite, trong khi những người còn lại đã bị những người mới đến Phrygian sa thải cho khu vực. Sau c. 1180 TCN, trong thời kỳ đồ đồng, người Hittites nảy nở thành nhiều thành phố độc lập “Neo-Hittite” độc lập, một số đã tồn tại cho đến thế kỷ 8 trước Công nguyên trước khi lâm trận với đế quốc Tân Assyrian.
Người Hittite xây dựng nên Hattusa ngày nay nằm ở phía Bắc thủ đô Ankara, thuộc đất nước Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện còn rất nhiều những thành phố của nước Thổ có tên xuất phát từ những cái tên cổ của người Hittite, như là Sinop hay Adana. Và tại tòa nhà Liên Hợp Quốc ở New York, người ta có treo một bản đá với chữ hình nêm sao chép lại hiệp ước hòa bình được người Hattite ký kết sau trận chiến Kadesh…
Thời kỳ phát triển thịnh vượng nhất của người Hittite vào khoảng thế kỷ 14 TCN, với phần lãnh thổ rộng khắp gồm phần lớn Anatolia, Tây Bắc Syria, phía trên vùng Mesopotamia. Ngôn ngữ Hattusa đã được giải mã bởi một nhà ngôn ngữ Czech, Bedrich Hrozny (1879-1952). Ông đã công bố kết quả của mình trong một bài giảng tại Hội Đông gần Berlin.
Cuốn sách của ông về việc khám phá được in tại Leipzig vào năm 1917, dưới tựa đề Ngôn ngữ của dân Hê-tít. Trong ngôn ngữ Hittite có nhiều từ vay mượn, đặc biệt từ vựng trong tôn giáo từ Hurrian và Hattic ngôn ngữ phi Ấn – Âu. Tiếp theo là có sự pha trộn thổ ngữ địa phương trước khi người Hittite cai trị vùng đất này.
Một vương triều ba giai đoạn
Những gì còn lại của đế chế Hittite ở thủ phủ Hattusha được bảo tồn khá tốt. Đền thờ, dinh thự hoàng gia, công sự, các đồ trang trí và những trụ đá chạm khắc phù điêu… giúp các nhà nghiên cứu hình dung ra một đế chế hùng mạnh đã ảnh hưởng tới một khu vực rộng lớn kéo dài từ Anatolia đến miền Bắc Syria trong suốt khoảng 200 năm. Có ba thời kỳ phát triển hình thành nên đế chế Hittite là thời Cổ Vương quốc (1750-1500 TCN), Trung Vương quốc (1500 – 1430 TCN) và thời kỳ Tân Vương quốc (1430 – 1180TCN).
Thời Cổ Vương quốc. Được mở đầu bằng việc truất phế vua Anitta của nước láng giềng Kussara vào năm 1700 TCN. Thành phố Hattusa cổ đại đã đánh lui các cuộc tấn công của Sargon Đại đế, Naram Sin Đại đế và thành phố đã trải qua một trận hỏa hoạn. Không lâu sau trận hỏa hoạn, thành phố đã được xây dựng lại nhờ vua Hattuasili I, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thành phố Hattusa cổ đại đã được đặt tên theo tên vị vua đã xây dựng lên.
Sau đó Hattuasili I cùng với con trai và anh em của mình tấn công và chiếm đoạt những lãnh thổ khác bằng vũ lực. Những người con của Hattuasili I chiếm giữ và cai quản một thành phố. Nhưng khi các vùng đất mới phát triển thịnh vượng, những người này đã nổi dậy chống lại chính cha của mình. Cuối cùng, Hattusili I chọn cháu trai của mình, Mursilli là người thừa kế. Chính Mursilli là người nổi tiếng với sự tàn phá Aleppo và Babylon nhưng đã không cai trị được và để người Kassite nổi lên và chiếm giữ suốt 400 năm.
Thời kỳ Trung Vương quốc. Vua Telipinus được coi là vị vua cuối cùng của Cổ Vương quốc, cái chết của ông là sự khởi đầu của giai đoạn kéo dài tạo nên đế quốc Hittite. Các thành phố mà Telipinus bị buộc phải từ bỏ đã rơi vào tay Hanigalbat, sau đó họ lại đầu hàng người Ai Cập. Thutmose III (trị vì 1479-1426 BC) tiến hành nhiều cuộc chinh phục với sự trợ giúp của người Ai Cập.
Thời kỳ Tân Vương quốc. Tân Vương quốc thực sự bắt đầu với sự trị vì của Suppiluliuma I. Vua Suppiluliuma I nắm giữ lịch sử của Trung Đông trong thế kỷ 14 TCN. Những nhà nghiên cứu cho rằng ông lên ngôi vào khoảng năm 1380 và đã trị vì trong khoảng bốn thập kỷ. Trong những năm đầu của triều đại của mình, Suppiluliuma I đã hợp nhất quê hương Hittite và tăng cường khả năng phòng thủ của Hattusa. Các bức tường thành phố mở rộng rất nhiều đã được xây dựng, bao quanh một diện tích hơn 120 ha. Đế chế Hittite bắt đầu mở rộng về phía Đông và hầu hết các thành phố Bắc Syria.
Dưới triều đại của Suppilulima I, các vương quốc Mittani và vùng Levant màu mỡ, các thành phố cảng Byblos đã trở thành một phần của đế chế Hittite. Suppiluliuma I cuối cùng đã chết trong trận dịch năm 1322 TCN, người ta cho rằng những nô lệ Ai Cập do ông bắt về trong những chuyến đi chinh phục đã mang theo bệnh dịch hạch.
Trải qua nhiều vương triều, tới thời đại của vua Muwatalli II (1295-1272 TCN) nổi tiếng nhất bởi trận chiến Kadesh với Pharaoh Ramses. Sau đó Muwatalli II đã ký kết bản hiệp định hòa bình giữa Hittite và Ai Cập, đây được coi là bản hiệp ước hòa bình cổ xưa nhất trong lịch sử nhân loại.
Phát triển rực rỡ
Mặc dù thuộc thời kì đồ đồng nhưng người Hittite là những người đầu tiên phát triển việc sản xuất sắt. Những phát hiện khảo cổ học mới đây cho thấy bằng chứng về đồ sắt đã xuất hiện từ thế kỷ 20 TCN. Dấu vết của luyện kim được tìm thấy trong thành phố cổ Hattusas.
Ở thời kỳ này, vũ khí của người Hittite chủ yếu làm bằng đồng còn vũ khí bằng sắt rất hiếm, quý giá và được coi như một công cụ để trao đổi hàng hóa. Những chiến binh Hittite còn nổi tiếng trong việc chế tạo và sử dụng chiến xa. Những chiến xa của họ được minh họa lại trên những tấm kim loại được tìm thấy ở Carchemish.
Học giả người Pháp Félix Marie Charles Texier phát hiện ra tàn tích Hittite đầu tiên vào năm 1834, nhưng đã không nhận ra chúng là của thời kỳ Hittite. Các bằng chứng khảo cổ học đầu tiên cho người Hittites tìm thấy tại các thuộc địa của Assyrian Kultepe.
Năm 1887, cuộc khai quật tại Tell El-Amarna ở Ai Cập phát hiện ra các thư tín ngoại giao của Pharaoh Amenhotep III và con trai Akhenaton. Trong một cuộc khai quật tại Hattusa bắt đầu từ năm 1906, nhà khảo cổ học Hugo Winckler đã tìm thấy một kho lưu trữ hoàng gia với 10.000 bảng đá, ghi bằng chữ hình nêm Akkad và cùng ngôn ngữ không rõ là các chữ Ai Cập.
Tôn giáo của người Hittite là một sự hòa trộn. Nó kết hợp các yếu tố phổ biến của bản địa vùng Anatolia với một số ảnh hưởng bên ngoài chủ yếu của Hurrianorigin. Những ảnh hưởng này được thể hiện rõ nhất trong các ngôi đền đá cắt của Yazilikaya.
Người Hittite thường xây dựng các đền thờ thần Bão tố và vợ của mình là các nữ thần đất, đây là một bằng chứng cho thấy một xã hội mẫu hệ sớm. Thần Bão tố được coi là vị chúa tể của những vùng đất Hatti và là người đứng đầu trong số các vị thần. Ông là vị thần chiến đấu và chiến thắng các cuộc xâm lăng.
Nền kinh tế Hittite dựa vào nông nghiệp. Các cây trồng chính là lúa mì và lúa mạch. Phải mất ít nhất 22.000 ha đất canh tác để đáp ứng nhu cầu hàng năm của Hattusas. Chăn nuôi trong nước bao gồm gia súc, cừu, dê, lợn. Hittite thịnh vượng chủ yếu phụ thuộc vào sự kiểm soát các tuyến đường thương mại và nguồn kim loại. Họ hiểu rõ tầm quan trọng của miền Bắc Syria là nơi các tuyến đường quan trọng nối liền các cửa Cilician với Mesopotamia.
Nhà vua là người cai trị tối cao, chỉ huy quân sự, cơ quan tư pháp. Xung quanh ông là một tầng lớp các quý tộc và chức sắc, thường là có quan hệ gia đình. Nhà vua chia các thành phố quan trọng cho các thành viên trong gia đình cai trị. Trong nhiều thế kỷ sau, nguyên tắc này đã được mở rộng ra đến cả chư hầu bản xứ, những người đã trở thành thành viên của gia đình nhà vua.
Một đặc điểm đáng chú ý của đế chế Hittite là vai trò của phụ nữ, đặc biệt là các nữ hoàng. Pudupepa, vợ của Hattusilis III, thường xuyên kết hợp với chồng trong các điều ước và các văn bản của nhà nước. Các bộ sưu tập khoảng 200 luật Hittite, tuân luật pháp của thời kỳ khác nhau cho thấy một sự phát triển liên tục hướng tới hình phạt nhẹ hơn và nhân đạo hơn. Từ những văn bản cổ còn sót lại cho thấy hỏa táng là phổ biến ở miền trung Anatolia. Những ngôi mộ tùy táng chỉ dành cho các vị vua Hittite. Những người dân thường chỉ được phép chôn hoặc hỏa táng.
Nội chiến và sự tranh giành ngai vàng, cùng với các mối đe dọa từ bên ngoài đã làm suy yếu Hittite. Tudhaliya IV là vị vua Hittite mạnh mẽ cuối cùng chống lại sự xâm lấn của người Assyria, ông đã có nhiều trận hải chiến chống lại Alashiya ngoài khơi bờ biển đảo Síp. Nhưng cuối cùng thì Hattusa cũng chìm trong biển lửa trước sự tấn công của Kaskas, Phrygia và Bryges – những kẻ xâm lược.
Mặc dù đế chế Hittite biến mất trên bản đồ Anatolia vào thời điểm này (1160 TCN), nhưng đã xuất hiện một số các tiểu vương quốc gọi là Neo-Hittite. Những tiểu vương quốc này nằm rải rác ở Anatolia và miền Bắc Syria và trở thành các chư hầu dưới quyền kiểm soát của người Assyria dưới triều đại của vua Sargon II.