QUÂN ĐỘI CÁC NƯỚC ĐANG HỌC LẠI CÁCH TÁC CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ

by admin

“Thực tế trong toàn bộ lịch sử, các tướng lĩnh đã chán ghét viễn cảnh chiến đấu trong các thành phố và tìm cách tránh nó,” theo một bài viết trên Tạp chí An ninh Quốc gia Texas, nhưng dù muốn hay không, các quân đội hiện đại ngày càng buộc phải làm như vậy. Họ đang nhìn về quá khứ để được hướng dẫn và cân nhắc xem các trận chiến đô thị có thể diễn ra như thế nào là tốt nhất với vũ khí hiện đại.

Trong một bài phát biểu trước Học viện Quân sự Hoa Kỳ vào tháng 5, Tướng Mark Milley, nói với các học viên tốt nghiệp rằng họ sẽ phải trang bị lại cho phù hợp với các thành phố, điều đó sẽ biến đổi quân đội với “những tác động to lớn” đối với mọi thứ, từ các kiểu ngụy trang và vũ khí cho đến thiết kế xe cộ và hậu cần.

Sự quan tâm ngày càng tăng này có một số nguyên nhân:

Thành phố là trung tâm của nhiều cuộc chiến tranh hiện đại. Cuộc chiến giữa Armenia và Azerbaijan vào năm 2020. Các trận đánh Mosul, ở Iraq và Raqqa, ở Syria. Gần đây nhất, tại Ukraine, Nga đã chiến đấu không chỉ ở Mariupol mà còn cả Severodonetsk và Lysychansk thuộc vùng Donbas. Sắp tới đây, biết đâu sẽ có giao chiến ở Kherson nữa.

Một nguyên nhân nữa là sự phát triển các đô thị. Cho đến đầu thế kỷ 21, nhiều người sống ở nông thôn hơn thành thị. Hiện hơn một nửa dân số trên thế giới sống ở các thị trấn và thành phố, con số này dự kiến ​​sẽ tăng lên 2/3 vào năm 2050. Ở một số nơi, con số này vẫn còn cao hơn. Một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan, nếu xảy ra, sẽ có các trận đánh trong các thị trấn và thành phố của hòn đảo, nơi 80% dân số của nó sinh sống.

Các thành phố đang trở nên lớn hơn. Năm 1950, chỉ có New York và Tokyo đủ tiêu chuẩn là “siêu đô thị” – với hơn 10 triệu dân. Ngày nay, Liên hợp quốc cho rằng có 33 thành phố như vậy. Mặc dù các cuộc chiến đã xảy ra trong và xung quanh các thành phố kể từ thời cổ đại, nhưng rất ít cuộc chiến được tiến hành bên trong những thành phố lớn và phức tạp cỡ đó.

Nhưng khi các thành phố trở nên đông đúc, quân đội đã thu hẹp lại. Anthony King của Đại học Warwick, ghi nhận rằng “trong quá khứ những đội quân đông đảo tràn ngập các thành phố, tạo thành những mặt trận rộng lớn xung quanh và xuyên qua các thành phố đó”. Tám mươi năm trước, gần nửa triệu người đã chiến đấu tại Stalingrad, nơi có dân số trước chiến tranh khoảng 400.000 người. Ngày nay “các thành phố bao trùm các lực lượng vũ trang.” Gần 100.000 quân đã tấn công Mosul, thành phố 1,7 triệu dân, để loại bỏ phiến quân IS vào năm 2016.

Chiến tranh đô thị có tiếng là tàn khốc và tàn bạo. Các khu vực xây dựng có nhiều nơi để ẩn náu, vì vậy các cuộc đọ súng xảy ra bất ngờ và ở cự ly gần. Các tòa nhà có thể được đặt mìn và bẫy. Sự cần thiết phải thường xuyên cảnh giác làm căng thẳng thần kinh của binh lính. Chiến đấu trong rừng rậm cũng gây ra những khó khăn tương tự, nhưng ở các thành phố, sự hiện diện của dân thường khiến mọi thứ trở nên khó khăn hơn. Một sĩ quan quân đội châu Âu nói: “Tôi có thể phá hủy một khu rừng, nhưng tôi sẽ không được phép phá hủy một thành phố.”

Các loại vũ khí nổ hiện đại chủ yếu được thiết kế cho các trận chiến thời chiến tranh lạnh trên các vùng đồng bằng của châu Âu. Khi chúng được sử dụng ở các khu vực đông dân cư, cứ 10 người thương vong thì có ít nhất 9 người có khả năng là dân thường. Các trận pháo kích của Nga đã phá hủy không chỉ Mariupol, Severodonetsk và nhiều thị trấn nhỏ hơn ở Ukraine, mà còn cả Grozny ở Chechnya và Aleppo ở Syria.

Tại Mosul, bom Mỹ có thể đánh trúng một tòa nhà với độ chính xác phi thường, nhưng quân nổi dậy chỉ đơn giản là chạy trốn sang các tòa nhà khác – sẽ bị trúng bom lần lượt. Kết quả, theo ghi nhận của Amos Fox, một thiếu tá trong quân đội Mỹ, những quả bom chỉ đơn giản là đuổi theo kẻ thù từ nhà này sang nhà khác. Hơn 10.000 dân thường đã thiệt mạng ở Mosul, khoảng một phần ba trong số đó là bởi liên quân do Mỹ đứng đầu.

Và cư dân của một thành phố không phải lúc nào cũng là những người ngoài cuộc thụ động. John Spencer, một thiếu tá đã nghỉ hưu và là chủ tịch nghiên cứu chiến tranh đô thị, đã bắt đầu công bố lời khuyên cho cư dân các thành phố Ukraine trong vòng vài ngày sau ngày 24 tháng 2. Vào tháng 6, ông đã đến thăm Kyiv và tìm hiểu cách nó được bảo vệ bởi một lữ đoàn Ukraine đơn độc, được hỗ trợ bởi các tình nguyện viên dân sự, những người đã được trao hàng chục nghìn khẩu súng trường AK-47 khi bắt đầu chiến tranh. Người dân trở thành một mạng lưới quan sát không chính thức, gọi điện thông báo cho quân Ukraine biết vị trí của các đơn vị Nga di chuyển qua khu vực lân cận của họ.

Một đặc điểm khác của các thành phố là chúng có xu hướng mở rộng dưới lòng đất. Marko Bulmer, một nhà khoa học và là quân dự bị trong quân đội Anh, mô tả cách phiến quân IS khai thác các hố sụt và hang động xung quanh Mosul, đồng thời xây dựng các đường hầm mới, một số đường hầm đủ lớn cho các phương tiện giao thông, bằng cách sử dụng mọi thứ, từ dụng cụ cầm tay đến máy khoan cải tiến. Những đường hầm tinh vi nhất đã được bố trí ký túc xá, bệnh viện và hệ thống thông gió. Ở Mariupol, quân trú phòng Ukraine trong mạng lưới ngầm của các nhà máy thép Azovstal đã ngăn chặn lực lượng vượt trội của Nga trong nhiều tháng.

Nhiều công nghệ mới hơn, bao gồm định vị vệ tinh và giám sát bằng máy bay không người lái, đã không hoạt động được dưới lòng đất. Ngay cả trên mặt đất, chúng cũng có lúc không đáng tin cậy. “Hẻm núi đô thị” giữa các tòa nhà cao tầng có thể gây nhiễu tín hiệu vô tuyến. Truyền hình và đài phát thanh dân sự làm nghẽn sóng.

Giờ đây, các lực lượng vũ trang đã kết luận rằng tác chiến đô thị có khả năng trở nên phổ biến hơn, họ đang tự hỏi làm thế nào một số tính năng của nó có thể trở thành lợi thế của họ.

Quân đội Anh đang phân tích các trận đánh mở đầu của một cuộc chiến tranh châu Âu giữa NATO và Nga sẽ như thế nào. Thiếu tướng James Bowder, phụ trách nỗ lực đó, đã cảnh báo, quân đội sẽ phải vật lộn để điều động ở những nơi trống trải khi các vệ tinh hoặc các máy bay không người lái có thể nhìn xuyên qua các đám mây và hỏa lực mà chúng hướng dẫn trở nên nguy hiểm hơn.

Do đó, việc di chuyển giữa các thị trấn và thành phố sẽ dẫn đến “mối nguy hiểm chưa từng có”, Tướng Bowder nói. Mặt trái của nó là các khu vực đô thị sẽ trở thành “giải thưởng chính”, không chỉ vì giá trị chính trị và kinh tế của chúng mà còn vì đó là nơi trú ẩn mà kẻ thù không thể tìm thấy và tấn công. Hàm ý là những nơi như Tallinn, Riga và Vilnius, mặc dù là các thành phố tương đối nhỏ, nhưng sẽ trở thành thành trì, cung cấp nơi trú ẩn cho quân đội NATO khi họ đột kích vào các tuyến tiếp tế của Nga và chuẩn bị phản công.

Về mặt chiến thuật, cần học hỏi từ những người có nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn trong khu vực đô thị, chẳng hạn việc dùng chất nổ mở một con đường xuyên qua các tòa nhà thay vì sử dụng cửa và đường, một kỹ thuật được các nhà lý luận quân sự người Pháp ghi nhận lần đầu tiên khi viết về các trận chiến ở Paris vào thế kỷ 19.

” Bạn giải thích con hẻm là một nơi để đi bộ qua, giống như mọi kiến ​​trúc sư và mọi nhà quy hoạch đô thị, hay là một nơi bị cấm đi qua?” Aviv Koshavi, một tướng Israel, hỏi. “Kẻ thù giải thích không gian theo cách truyền thống, cổ điển, và tôi không muốn tuân theo cách giải thích này và rơi vào bẫy của hắn.” Theo ông Weizman, kết quả gần như là một hình thức chiến tranh hậu hiện đại: “một quan niệm về thành phố không chỉ là địa điểm, mà còn là môi trường chiến tranh chính – một môi trường linh hoạt, gần như chất lỏng”.

Bài học của quá khứ

Trong một cuộc tập trận gần đây ở Leeds, miền bắc nước Anh, ​​các binh sĩ từ Trung đoàn Công binh 21 của Anh di chuyển trong các đường hầm đô thị trong điều kiện oi bức, ánh sáng yếu và nước sâu đến đầu gối. Trung sĩ Dale Mottley, người tham gia cuộc tập trận, cho biết lần cuối cùng công binh Anh tiến hành kiểu di chuyển dưới lòng đất trên quy mô lớn là trong chiến tranh Triều Tiên.

Cuộc diễn tập cung cấp một loạt bài học. Bóng tối hoàn toàn khiến kính nhìn đêm trở nên vô dụng. Việc xáo trộn nước tù đọng có thể giải phóng khí độc vào không khí, và binh lính có thể nhanh chóng sử dụng hết lượng oxy sẵn có. Nhiệt độ cũng thấp hơn, tới 10 độ C. Trung sĩ Mottley nói: “Bạn sẽ không di chuyển nhanh, trừ khi bạn được thao luyện đúng cách, và đã trải qua một thời gian dài ở đó,.

Những cách cũ thường tốt nhất. Trung sĩ Mottley nói rằng “thiết bị khai mỏ được đưa vào sử dụng từ những năm 1960, được chuyển giao cho quân đội, hữu ích hơn một số thiết bị mới hơn, đẹp hơn. Nhưng một số cách cũ hiện nay đã bị giới hạn. Các kỹ thuật từng được sử dụng để thông đường ở Việt Nam hay ở Afghanistan, ngày nay có thể bị coi là bất hợp pháp”. (chẳng hạn hơi cay, mặc dù được sử dụng thường xuyên chống lại những người biểu tình trong nước, nhưng phần lớn là bất hợp pháp trong chiến tranh.)

Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi các thành phố làm chậm quân đội: tốc độ tiến công bằng một phần ba đến một nửa so với chiến đấu ngoài đô thị.

Nhưng các thành phố không nhất thiết phải chết chóc hơn các chiến trường khác. Tổn thất về người và phương tiện của kẻ tấn công trong tác chiến đô thị không cao hơn so với tác chiến ngoài đô thị. Trong các trận chiến đô thị gần đây – trận Fallujah ở Iraq năm 2004 hay Marawi ở Philippines năm 2017 – thương vong của những kẻ tấn công rất thấp, chỉ hơn một người chết mỗi ngày và thấp hơn nhiều so với những người phòng thủ. Trên thực tế, thương vong cao nhất trong các cuộc tấn công đô thị do quân đội Liên Xô hoặc Nga gánh chịu – một thực tế nói lên nhiều điều về năng lực chiến thuật của Nga cũng như về chiến tranh đô thị.

Một báo cáo của Tập đoàn RAND, một tổ chức tư vấn của Mỹ, kết luận rằng tỷ lệ căng thẳng trong chiến đấu – cái từng được gọi là sốc đạn pháo – không cao hơn bình thường trong các trận đánh Brest ở Brittany năm 1944, Manila ở Philippines năm 1945 hoặc Huế tại Việt Nam vào năm 1968 (mặc dù hầu hết thường dân đã khôn ngoan rời đi trước khi cuộc giao tranh bắt đầu). Báo cáo cho thấy rằng, nghịch lý thay, cường độ chiến đấu trong đô thị mang lại cho binh lính cảm giác chủ động, kiểm soát và có mục đích cao hơn so với những người chiến đấu ở địa hình mở. Theo giai thoại, các lực lượng Ukraine đang đối mặt với làn đạn từ xa và không ngừng ở Donbas nói rằng việc không thể nhìn thấy kẻ thù cũng khiến đối phương mất tinh thần và mất sức lực như bất cứ thứ gì khác.

Thông thường là các đội quân trong cuộc tấn công phải đông hơn đối thủ của họ từ ba đến một để áp đảo một vị trí được phòng thủ. Một tài liệu hướng dẫn được xuất bản bởi quân đội và lính thủy đánh bộ Mỹ vào tháng 7 lưu ý rằng ở các khu vực thành thị, tỷ lệ này có thể tăng cao tới 15: 1.

Về lý thuyết, những tỷ lệ này có nghĩa là các lực lượng nhỏ hơn có cơ hội tốt hơn để ngăn chặn nhiều kẻ tấn công – như những gì người Ukraine đã làm ở Kyiv. Nhưng không phải lúc nào nó cũng hoạt động theo cách đó. Rốt cuộc, những người bảo vệ đô thị phải đối mặt với những tình huống khó xử của riêng họ. Một tiểu đoàn đơn lẻ có thể bảo vệ một số ít các tòa nhà, nhưng mỗi đơn vị sẽ phải vật lộn để nhìn xa hơn xung quanh, hỗ trợ cho những người khác hoặc bổ sung nguồn cung cấp và sơ tán thương vong. Do đó, một số lượng lớn quân phòng thủ có thể bị chốt cứng ở một số ít nơi “cố định”, và bị loại bỏ hoặc bỏ qua.

Stuart Lyle, chuyên gia đô thị tại Phòng thí nghiệm Khoa học và Công nghệ Quốc phòng của Anh cho biết: “Trong phần lớn các trận chiến đô thị mà chúng tôi đã kiểm tra,“ kẻ tấn công sẽ thắng ”. Ông Betz và Đại tá Stanford-Tuck chỉ ra các trận chiến giành Aachen, Groningen và Medicina vào năm 1944-45, nơi các lực lượng tấn công nhỏ hơn đánh bại quân phòng thủ lớn hơn, thường với thương vong rất thấp và trong trường hợp sau là vài giờ.

Trong tất cả những trường hợp này, những bước tiến nhanh, mạnh và nhiều mũi nhọn có thể làm tê liệt việc ra quyết định của đối phương. Chiến tranh tổng hợp vũ khí, với bộ binh, thiết giáp, pháo binh và máy bay phối hợp chặt chẽ với nhau, là yếu tố sống còn.

Xe tăng thường rất cần thiết, dù được cho là không phù hợp với những con đường thành phố chật hẹp, ngỗn ngang nhiều đống vật liệu. Đại tá Mansoor nhớ lại rằng trong cuộc chiến giành Thành phố Sadr ở Baghdad, các chiến binh Shia đã phá hủy sáu xe bọc thép hạng nhẹ Stryker bằng súng phóng tên lửa trong vòng một tuần. Các chỉ huy Mỹ đã buộc phải gửi những chiếc xe tăng Abrams lớn hơn nhiều “cung cấp sức mạnh vượt trội khi quân đội cần ở lại khu vực”.

Mặc dù nhiều thứ đã bị lãng quên trong hai thập kỷ qua, những vấn đề cơ bản của chiến tranh đô thị không phải là mới. Các thành phố đã bị san bằng, đào bới và tranh chấp kể từ thời cổ đại. Quân đội Liên Xô và phương Tây đều suy nghĩ sâu sắc về một trận chiến tiềm tàng ở Berlin, trong trường hợp chiến tranh lạnh trở nên nóng bỏng. Đại tá Collins nói: “Tất cả đều đã được học trước đây. Nhưng quân đội đã không dạy và nghiên cứu những vấn đề đó, và đó có lẽ là nỗi thất vọng lớn nhất.”

Nguồn: The Economist

QUÂN ĐỘI CÁC NƯỚC ĐANG HỌC LẠI CÁCH TÁC CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ

“Thực tế trong toàn bộ lịch sử, các tướng lĩnh đã chán ghét viễn cảnh chiến đấu trong các thành phố và tìm cách tránh nó,” theo một bài viết trên Tạp chí An ninh Quốc gia Texas, nhưng dù muốn hay không, các quân đội hiện đại ngày càng buộc phải làm như vậy. Họ đang nhìn về quá khứ để được hướng dẫn và cân nhắc xem các trận chiến đô thị có thể diễn ra như thế nào là tốt nhất với vũ khí hiện đại.

Trong một bài phát biểu trước Học viện Quân sự Hoa Kỳ vào tháng 5, Tướng Mark Milley, nói với các học viên tốt nghiệp rằng họ sẽ phải trang bị lại cho phù hợp với các thành phố, điều đó sẽ biến đổi quân đội với “những tác động to lớn” đối với mọi thứ, từ các kiểu ngụy trang và vũ khí cho đến thiết kế xe cộ và hậu cần.

Sự quan tâm ngày càng tăng này có một số nguyên nhân:

Thành phố là trung tâm của nhiều cuộc chiến tranh hiện đại. Cuộc chiến giữa Armenia và Azerbaijan vào năm 2020. Các trận đánh Mosul, ở Iraq và Raqqa, ở Syria. Gần đây nhất, tại Ukraine, Nga đã chiến đấu không chỉ ở Mariupol mà còn cả Severodonetsk và Lysychansk thuộc vùng Donbas. Sắp tới đây, biết đâu sẽ có giao chiến ở Kherson nữa.

Một nguyên nhân nữa là sự phát triển các đô thị. Cho đến đầu thế kỷ 21, nhiều người sống ở nông thôn hơn thành thị. Hiện hơn một nửa dân số trên thế giới sống ở các thị trấn và thành phố, con số này dự kiến ​​sẽ tăng lên 2/3 vào năm 2050. Ở một số nơi, con số này vẫn còn cao hơn. Một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan, nếu xảy ra, sẽ có các trận đánh trong các thị trấn và thành phố của hòn đảo, nơi 80% dân số của nó sinh sống.

Các thành phố đang trở nên lớn hơn. Năm 1950, chỉ có New York và Tokyo đủ tiêu chuẩn là “siêu đô thị” – với hơn 10 triệu dân. Ngày nay, Liên hợp quốc cho rằng có 33 thành phố như vậy. Mặc dù các cuộc chiến đã xảy ra trong và xung quanh các thành phố kể từ thời cổ đại, nhưng rất ít cuộc chiến được tiến hành bên trong những thành phố lớn và phức tạp cỡ đó.

Nhưng khi các thành phố trở nên đông đúc, quân đội đã thu hẹp lại. Anthony King của Đại học Warwick, ghi nhận rằng “trong quá khứ những đội quân đông đảo tràn ngập các thành phố, tạo thành những mặt trận rộng lớn xung quanh và xuyên qua các thành phố đó”. Tám mươi năm trước, gần nửa triệu người đã chiến đấu tại Stalingrad, nơi có dân số trước chiến tranh khoảng 400.000 người. Ngày nay “các thành phố bao trùm các lực lượng vũ trang.” Gần 100.000 quân đã tấn công Mosul, thành phố 1,7 triệu dân, để loại bỏ phiến quân IS vào năm 2016.

Chiến tranh đô thị có tiếng là tàn khốc và tàn bạo. Các khu vực xây dựng có nhiều nơi để ẩn náu, vì vậy các cuộc đọ súng xảy ra bất ngờ và ở cự ly gần. Các tòa nhà có thể được đặt mìn và bẫy. Sự cần thiết phải thường xuyên cảnh giác làm căng thẳng thần kinh của binh lính. Chiến đấu trong rừng rậm cũng gây ra những khó khăn tương tự, nhưng ở các thành phố, sự hiện diện của dân thường khiến mọi thứ trở nên khó khăn hơn. Một sĩ quan quân đội châu Âu nói: “Tôi có thể phá hủy một khu rừng, nhưng tôi sẽ không được phép phá hủy một thành phố.”

Các loại vũ khí nổ hiện đại chủ yếu được thiết kế cho các trận chiến thời chiến tranh lạnh trên các vùng đồng bằng của châu Âu. Khi chúng được sử dụng ở các khu vực đông dân cư, cứ 10 người thương vong thì có ít nhất 9 người có khả năng là dân thường. Các trận pháo kích của Nga đã phá hủy không chỉ Mariupol, Severodonetsk và nhiều thị trấn nhỏ hơn ở Ukraine, mà còn cả Grozny ở Chechnya và Aleppo ở Syria.

Tại Mosul, bom Mỹ có thể đánh trúng một tòa nhà với độ chính xác phi thường, nhưng quân nổi dậy chỉ đơn giản là chạy trốn sang các tòa nhà khác – sẽ bị trúng bom lần lượt. Kết quả, theo ghi nhận của Amos Fox, một thiếu tá trong quân đội Mỹ, những quả bom chỉ đơn giản là đuổi theo kẻ thù từ nhà này sang nhà khác. Hơn 10.000 dân thường đã thiệt mạng ở Mosul, khoảng một phần ba trong số đó là bởi liên quân do Mỹ đứng đầu.

Và cư dân của một thành phố không phải lúc nào cũng là những người ngoài cuộc thụ động. John Spencer, một thiếu tá đã nghỉ hưu và là chủ tịch nghiên cứu chiến tranh đô thị, đã bắt đầu công bố lời khuyên cho cư dân các thành phố Ukraine trong vòng vài ngày sau ngày 24 tháng 2. Vào tháng 6, ông đã đến thăm Kyiv và tìm hiểu cách nó được bảo vệ bởi một lữ đoàn Ukraine đơn độc, được hỗ trợ bởi các tình nguyện viên dân sự, những người đã được trao hàng chục nghìn khẩu súng trường AK-47 khi bắt đầu chiến tranh. Người dân trở thành một mạng lưới quan sát không chính thức, gọi điện thông báo cho quân Ukraine biết vị trí của các đơn vị Nga di chuyển qua khu vực lân cận của họ.

Một đặc điểm khác của các thành phố là chúng có xu hướng mở rộng dưới lòng đất. Marko Bulmer, một nhà khoa học và là quân dự bị trong quân đội Anh, mô tả cách phiến quân IS khai thác các hố sụt và hang động xung quanh Mosul, đồng thời xây dựng các đường hầm mới, một số đường hầm đủ lớn cho các phương tiện giao thông, bằng cách sử dụng mọi thứ, từ dụng cụ cầm tay đến máy khoan cải tiến. Những đường hầm tinh vi nhất đã được bố trí ký túc xá, bệnh viện và hệ thống thông gió. Ở Mariupol, quân trú phòng Ukraine trong mạng lưới ngầm của các nhà máy thép Azovstal đã ngăn chặn lực lượng vượt trội của Nga trong nhiều tháng.

Nhiều công nghệ mới hơn, bao gồm định vị vệ tinh và giám sát bằng máy bay không người lái, đã không hoạt động được dưới lòng đất. Ngay cả trên mặt đất, chúng cũng có lúc không đáng tin cậy. “Hẻm núi đô thị” giữa các tòa nhà cao tầng có thể gây nhiễu tín hiệu vô tuyến. Truyền hình và đài phát thanh dân sự làm nghẽn sóng.

Giờ đây, các lực lượng vũ trang đã kết luận rằng tác chiến đô thị có khả năng trở nên phổ biến hơn, họ đang tự hỏi làm thế nào một số tính năng của nó có thể trở thành lợi thế của họ.

Quân đội Anh đang phân tích các trận đánh mở đầu của một cuộc chiến tranh châu Âu giữa NATO và Nga sẽ như thế nào. Thiếu tướng James Bowder, phụ trách nỗ lực đó, đã cảnh báo, quân đội sẽ phải vật lộn để điều động ở những nơi trống trải khi các vệ tinh hoặc các máy bay không người lái có thể nhìn xuyên qua các đám mây và hỏa lực mà chúng hướng dẫn trở nên nguy hiểm hơn.

Do đó, việc di chuyển giữa các thị trấn và thành phố sẽ dẫn đến “mối nguy hiểm chưa từng có”, Tướng Bowder nói. Mặt trái của nó là các khu vực đô thị sẽ trở thành “giải thưởng chính”, không chỉ vì giá trị chính trị và kinh tế của chúng mà còn vì đó là nơi trú ẩn mà kẻ thù không thể tìm thấy và tấn công. Hàm ý là những nơi như Tallinn, Riga và Vilnius, mặc dù là các thành phố tương đối nhỏ, nhưng sẽ trở thành thành trì, cung cấp nơi trú ẩn cho quân đội NATO khi họ đột kích vào các tuyến tiếp tế của Nga và chuẩn bị phản công.

Về mặt chiến thuật, cần học hỏi từ những người có nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn trong khu vực đô thị, chẳng hạn việc dùng chất nổ mở một con đường xuyên qua các tòa nhà thay vì sử dụng cửa và đường, một kỹ thuật được các nhà lý luận quân sự người Pháp ghi nhận lần đầu tiên khi viết về các trận chiến ở Paris vào thế kỷ 19.

” Bạn giải thích con hẻm là một nơi để đi bộ qua, giống như mọi kiến ​​trúc sư và mọi nhà quy hoạch đô thị, hay là một nơi bị cấm đi qua?” Aviv Koshavi, một tướng Israel, hỏi. “Kẻ thù giải thích không gian theo cách truyền thống, cổ điển, và tôi không muốn tuân theo cách giải thích này và rơi vào bẫy của hắn.” Theo ông Weizman, kết quả gần như là một hình thức chiến tranh hậu hiện đại: “một quan niệm về thành phố không chỉ là địa điểm, mà còn là môi trường chiến tranh chính – một môi trường linh hoạt, gần như chất lỏng”.

Bài học của quá khứ

Trong một cuộc tập trận gần đây ở Leeds, miền bắc nước Anh, ​​các binh sĩ từ Trung đoàn Công binh 21 của Anh di chuyển trong các đường hầm đô thị trong điều kiện oi bức, ánh sáng yếu và nước sâu đến đầu gối. Trung sĩ Dale Mottley, người tham gia cuộc tập trận, cho biết lần cuối cùng công binh Anh tiến hành kiểu di chuyển dưới lòng đất trên quy mô lớn là trong chiến tranh Triều Tiên.

Cuộc diễn tập cung cấp một loạt bài học. Bóng tối hoàn toàn khiến kính nhìn đêm trở nên vô dụng. Việc xáo trộn nước tù đọng có thể giải phóng khí độc vào không khí, và binh lính có thể nhanh chóng sử dụng hết lượng oxy sẵn có. Nhiệt độ cũng thấp hơn, tới 10 độ C. Trung sĩ Mottley nói: “Bạn sẽ không di chuyển nhanh, trừ khi bạn được thao luyện đúng cách, và đã trải qua một thời gian dài ở đó,.

Những cách cũ thường tốt nhất. Trung sĩ Mottley nói rằng “thiết bị khai mỏ được đưa vào sử dụng từ những năm 1960, được chuyển giao cho quân đội, hữu ích hơn một số thiết bị mới hơn, đẹp hơn. Nhưng một số cách cũ hiện nay đã bị giới hạn. Các kỹ thuật từng được sử dụng để thông đường ở Việt Nam hay ở Afghanistan, ngày nay có thể bị coi là bất hợp pháp”. (chẳng hạn hơi cay, mặc dù được sử dụng thường xuyên chống lại những người biểu tình trong nước, nhưng phần lớn là bất hợp pháp trong chiến tranh.)

Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi các thành phố làm chậm quân đội: tốc độ tiến công bằng một phần ba đến một nửa so với chiến đấu ngoài đô thị.

Nhưng các thành phố không nhất thiết phải chết chóc hơn các chiến trường khác. Tổn thất về người và phương tiện của kẻ tấn công trong tác chiến đô thị không cao hơn so với tác chiến ngoài đô thị. Trong các trận chiến đô thị gần đây – trận Fallujah ở Iraq năm 2004 hay Marawi ở Philippines năm 2017 – thương vong của những kẻ tấn công rất thấp, chỉ hơn một người chết mỗi ngày và thấp hơn nhiều so với những người phòng thủ. Trên thực tế, thương vong cao nhất trong các cuộc tấn công đô thị do quân đội Liên Xô hoặc Nga gánh chịu – một thực tế nói lên nhiều điều về năng lực chiến thuật của Nga cũng như về chiến tranh đô thị.

Một báo cáo của Tập đoàn RAND, một tổ chức tư vấn của Mỹ, kết luận rằng tỷ lệ căng thẳng trong chiến đấu – cái từng được gọi là sốc đạn pháo – không cao hơn bình thường trong các trận đánh Brest ở Brittany năm 1944, Manila ở Philippines năm 1945 hoặc Huế tại Việt Nam vào năm 1968 (mặc dù hầu hết thường dân đã khôn ngoan rời đi trước khi cuộc giao tranh bắt đầu). Báo cáo cho thấy rằng, nghịch lý thay, cường độ chiến đấu trong đô thị mang lại cho binh lính cảm giác chủ động, kiểm soát và có mục đích cao hơn so với những người chiến đấu ở địa hình mở. Theo giai thoại, các lực lượng Ukraine đang đối mặt với làn đạn từ xa và không ngừng ở Donbas nói rằng việc không thể nhìn thấy kẻ thù cũng khiến đối phương mất tinh thần và mất sức lực như bất cứ thứ gì khác.

Thông thường là các đội quân trong cuộc tấn công phải đông hơn đối thủ của họ từ ba đến một để áp đảo một vị trí được phòng thủ. Một tài liệu hướng dẫn được xuất bản bởi quân đội và lính thủy đánh bộ Mỹ vào tháng 7 lưu ý rằng ở các khu vực thành thị, tỷ lệ này có thể tăng cao tới 15: 1.

Về lý thuyết, những tỷ lệ này có nghĩa là các lực lượng nhỏ hơn có cơ hội tốt hơn để ngăn chặn nhiều kẻ tấn công – như những gì người Ukraine đã làm ở Kyiv. Nhưng không phải lúc nào nó cũng hoạt động theo cách đó. Rốt cuộc, những người bảo vệ đô thị phải đối mặt với những tình huống khó xử của riêng họ. Một tiểu đoàn đơn lẻ có thể bảo vệ một số ít các tòa nhà, nhưng mỗi đơn vị sẽ phải vật lộn để nhìn xa hơn xung quanh, hỗ trợ cho những người khác hoặc bổ sung nguồn cung cấp và sơ tán thương vong. Do đó, một số lượng lớn quân phòng thủ có thể bị chốt cứng ở một số ít nơi “cố định”, và bị loại bỏ hoặc bỏ qua.

Stuart Lyle, chuyên gia đô thị tại Phòng thí nghiệm Khoa học và Công nghệ Quốc phòng của Anh cho biết: “Trong phần lớn các trận chiến đô thị mà chúng tôi đã kiểm tra,“ kẻ tấn công sẽ thắng ”. Ông Betz và Đại tá Stanford-Tuck chỉ ra các trận chiến giành Aachen, Groningen và Medicina vào năm 1944-45, nơi các lực lượng tấn công nhỏ hơn đánh bại quân phòng thủ lớn hơn, thường với thương vong rất thấp và trong trường hợp sau là vài giờ.

Trong tất cả những trường hợp này, những bước tiến nhanh, mạnh và nhiều mũi nhọn có thể làm tê liệt việc ra quyết định của đối phương. Chiến tranh tổng hợp vũ khí, với bộ binh, thiết giáp, pháo binh và máy bay phối hợp chặt chẽ với nhau, là yếu tố sống còn.

Xe tăng thường rất cần thiết, dù được cho là không phù hợp với những con đường thành phố chật hẹp, ngỗn ngang nhiều đống vật liệu. Đại tá Mansoor nhớ lại rằng trong cuộc chiến giành Thành phố Sadr ở Baghdad, các chiến binh Shia đã phá hủy sáu xe bọc thép hạng nhẹ Stryker bằng súng phóng tên lửa trong vòng một tuần. Các chỉ huy Mỹ đã buộc phải gửi những chiếc xe tăng Abrams lớn hơn nhiều “cung cấp sức mạnh vượt trội khi quân đội cần ở lại khu vực”.

Mặc dù nhiều thứ đã bị lãng quên trong hai thập kỷ qua, những vấn đề cơ bản của chiến tranh đô thị không phải là mới. Các thành phố đã bị san bằng, đào bới và tranh chấp kể từ thời cổ đại. Quân đội Liên Xô và phương Tây đều suy nghĩ sâu sắc về một trận chiến tiềm tàng ở Berlin, trong trường hợp chiến tranh lạnh trở nên nóng bỏng. Đại tá Collins nói: “Tất cả đều đã được học trước đây. Nhưng quân đội đã không dạy và nghiên cứu những vấn đề đó, và đó có lẽ là nỗi thất vọng lớn nhất.”

Nguồn: The Economist

QUÂN ĐỘI CÁC NƯỚC ĐANG HỌC LẠI CÁCH TÁC CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ

“Thực tế trong toàn bộ lịch sử, các tướng lĩnh đã chán ghét viễn cảnh chiến đấu trong các thành phố và tìm cách tránh nó,” theo một bài viết trên Tạp chí An ninh Quốc gia Texas, nhưng dù muốn hay không, các quân đội hiện đại ngày càng buộc phải làm như vậy. Họ đang nhìn về quá khứ để được hướng dẫn và cân nhắc xem các trận chiến đô thị có thể diễn ra như thế nào là tốt nhất với vũ khí hiện đại.

Trong một bài phát biểu trước Học viện Quân sự Hoa Kỳ vào tháng 5, Tướng Mark Milley, nói với các học viên tốt nghiệp rằng họ sẽ phải trang bị lại cho phù hợp với các thành phố, điều đó sẽ biến đổi quân đội với “những tác động to lớn” đối với mọi thứ, từ các kiểu ngụy trang và vũ khí cho đến thiết kế xe cộ và hậu cần.

Sự quan tâm ngày càng tăng này có một số nguyên nhân:

Thành phố là trung tâm của nhiều cuộc chiến tranh hiện đại. Cuộc chiến giữa Armenia và Azerbaijan vào năm 2020. Các trận đánh Mosul, ở Iraq và Raqqa, ở Syria. Gần đây nhất, tại Ukraine, Nga đã chiến đấu không chỉ ở Mariupol mà còn cả Severodonetsk và Lysychansk thuộc vùng Donbas. Sắp tới đây, biết đâu sẽ có giao chiến ở Kherson nữa.

Một nguyên nhân nữa là sự phát triển các đô thị. Cho đến đầu thế kỷ 21, nhiều người sống ở nông thôn hơn thành thị. Hiện hơn một nửa dân số trên thế giới sống ở các thị trấn và thành phố, con số này dự kiến ​​sẽ tăng lên 2/3 vào năm 2050. Ở một số nơi, con số này vẫn còn cao hơn. Một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan, nếu xảy ra, sẽ có các trận đánh trong các thị trấn và thành phố của hòn đảo, nơi 80% dân số của nó sinh sống.

Các thành phố đang trở nên lớn hơn. Năm 1950, chỉ có New York và Tokyo đủ tiêu chuẩn là “siêu đô thị” – với hơn 10 triệu dân. Ngày nay, Liên hợp quốc cho rằng có 33 thành phố như vậy. Mặc dù các cuộc chiến đã xảy ra trong và xung quanh các thành phố kể từ thời cổ đại, nhưng rất ít cuộc chiến được tiến hành bên trong những thành phố lớn và phức tạp cỡ đó.

Nhưng khi các thành phố trở nên đông đúc, quân đội đã thu hẹp lại. Anthony King của Đại học Warwick, ghi nhận rằng “trong quá khứ những đội quân đông đảo tràn ngập các thành phố, tạo thành những mặt trận rộng lớn xung quanh và xuyên qua các thành phố đó”. Tám mươi năm trước, gần nửa triệu người đã chiến đấu tại Stalingrad, nơi có dân số trước chiến tranh khoảng 400.000 người. Ngày nay “các thành phố bao trùm các lực lượng vũ trang.” Gần 100.000 quân đã tấn công Mosul, thành phố 1,7 triệu dân, để loại bỏ phiến quân IS vào năm 2016.

Chiến tranh đô thị có tiếng là tàn khốc và tàn bạo. Các khu vực xây dựng có nhiều nơi để ẩn náu, vì vậy các cuộc đọ súng xảy ra bất ngờ và ở cự ly gần. Các tòa nhà có thể được đặt mìn và bẫy. Sự cần thiết phải thường xuyên cảnh giác làm căng thẳng thần kinh của binh lính. Chiến đấu trong rừng rậm cũng gây ra những khó khăn tương tự, nhưng ở các thành phố, sự hiện diện của dân thường khiến mọi thứ trở nên khó khăn hơn. Một sĩ quan quân đội châu Âu nói: “Tôi có thể phá hủy một khu rừng, nhưng tôi sẽ không được phép phá hủy một thành phố.”

Các loại vũ khí nổ hiện đại chủ yếu được thiết kế cho các trận chiến thời chiến tranh lạnh trên các vùng đồng bằng của châu Âu. Khi chúng được sử dụng ở các khu vực đông dân cư, cứ 10 người thương vong thì có ít nhất 9 người có khả năng là dân thường. Các trận pháo kích của Nga đã phá hủy không chỉ Mariupol, Severodonetsk và nhiều thị trấn nhỏ hơn ở Ukraine, mà còn cả Grozny ở Chechnya và Aleppo ở Syria.

Tại Mosul, bom Mỹ có thể đánh trúng một tòa nhà với độ chính xác phi thường, nhưng quân nổi dậy chỉ đơn giản là chạy trốn sang các tòa nhà khác – sẽ bị trúng bom lần lượt. Kết quả, theo ghi nhận của Amos Fox, một thiếu tá trong quân đội Mỹ, những quả bom chỉ đơn giản là đuổi theo kẻ thù từ nhà này sang nhà khác. Hơn 10.000 dân thường đã thiệt mạng ở Mosul, khoảng một phần ba trong số đó là bởi liên quân do Mỹ đứng đầu.

Và cư dân của một thành phố không phải lúc nào cũng là những người ngoài cuộc thụ động. John Spencer, một thiếu tá đã nghỉ hưu và là chủ tịch nghiên cứu chiến tranh đô thị, đã bắt đầu công bố lời khuyên cho cư dân các thành phố Ukraine trong vòng vài ngày sau ngày 24 tháng 2. Vào tháng 6, ông đã đến thăm Kyiv và tìm hiểu cách nó được bảo vệ bởi một lữ đoàn Ukraine đơn độc, được hỗ trợ bởi các tình nguyện viên dân sự, những người đã được trao hàng chục nghìn khẩu súng trường AK-47 khi bắt đầu chiến tranh. Người dân trở thành một mạng lưới quan sát không chính thức, gọi điện thông báo cho quân Ukraine biết vị trí của các đơn vị Nga di chuyển qua khu vực lân cận của họ.

Một đặc điểm khác của các thành phố là chúng có xu hướng mở rộng dưới lòng đất. Marko Bulmer, một nhà khoa học và là quân dự bị trong quân đội Anh, mô tả cách phiến quân IS khai thác các hố sụt và hang động xung quanh Mosul, đồng thời xây dựng các đường hầm mới, một số đường hầm đủ lớn cho các phương tiện giao thông, bằng cách sử dụng mọi thứ, từ dụng cụ cầm tay đến máy khoan cải tiến. Những đường hầm tinh vi nhất đã được bố trí ký túc xá, bệnh viện và hệ thống thông gió. Ở Mariupol, quân trú phòng Ukraine trong mạng lưới ngầm của các nhà máy thép Azovstal đã ngăn chặn lực lượng vượt trội của Nga trong nhiều tháng.

Nhiều công nghệ mới hơn, bao gồm định vị vệ tinh và giám sát bằng máy bay không người lái, đã không hoạt động được dưới lòng đất. Ngay cả trên mặt đất, chúng cũng có lúc không đáng tin cậy. “Hẻm núi đô thị” giữa các tòa nhà cao tầng có thể gây nhiễu tín hiệu vô tuyến. Truyền hình và đài phát thanh dân sự làm nghẽn sóng.

Giờ đây, các lực lượng vũ trang đã kết luận rằng tác chiến đô thị có khả năng trở nên phổ biến hơn, họ đang tự hỏi làm thế nào một số tính năng của nó có thể trở thành lợi thế của họ.

Quân đội Anh đang phân tích các trận đánh mở đầu của một cuộc chiến tranh châu Âu giữa NATO và Nga sẽ như thế nào. Thiếu tướng James Bowder, phụ trách nỗ lực đó, đã cảnh báo, quân đội sẽ phải vật lộn để điều động ở những nơi trống trải khi các vệ tinh hoặc các máy bay không người lái có thể nhìn xuyên qua các đám mây và hỏa lực mà chúng hướng dẫn trở nên nguy hiểm hơn.

Do đó, việc di chuyển giữa các thị trấn và thành phố sẽ dẫn đến “mối nguy hiểm chưa từng có”, Tướng Bowder nói. Mặt trái của nó là các khu vực đô thị sẽ trở thành “giải thưởng chính”, không chỉ vì giá trị chính trị và kinh tế của chúng mà còn vì đó là nơi trú ẩn mà kẻ thù không thể tìm thấy và tấn công. Hàm ý là những nơi như Tallinn, Riga và Vilnius, mặc dù là các thành phố tương đối nhỏ, nhưng sẽ trở thành thành trì, cung cấp nơi trú ẩn cho quân đội NATO khi họ đột kích vào các tuyến tiếp tế của Nga và chuẩn bị phản công.

Về mặt chiến thuật, cần học hỏi từ những người có nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn trong khu vực đô thị, chẳng hạn việc dùng chất nổ mở một con đường xuyên qua các tòa nhà thay vì sử dụng cửa và đường, một kỹ thuật được các nhà lý luận quân sự người Pháp ghi nhận lần đầu tiên khi viết về các trận chiến ở Paris vào thế kỷ 19.

” Bạn giải thích con hẻm là một nơi để đi bộ qua, giống như mọi kiến ​​trúc sư và mọi nhà quy hoạch đô thị, hay là một nơi bị cấm đi qua?” Aviv Koshavi, một tướng Israel, hỏi. “Kẻ thù giải thích không gian theo cách truyền thống, cổ điển, và tôi không muốn tuân theo cách giải thích này và rơi vào bẫy của hắn.” Theo ông Weizman, kết quả gần như là một hình thức chiến tranh hậu hiện đại: “một quan niệm về thành phố không chỉ là địa điểm, mà còn là môi trường chiến tranh chính – một môi trường linh hoạt, gần như chất lỏng”.

Bài học của quá khứ

Trong một cuộc tập trận gần đây ở Leeds, miền bắc nước Anh, ​​các binh sĩ từ Trung đoàn Công binh 21 của Anh di chuyển trong các đường hầm đô thị trong điều kiện oi bức, ánh sáng yếu và nước sâu đến đầu gối. Trung sĩ Dale Mottley, người tham gia cuộc tập trận, cho biết lần cuối cùng công binh Anh tiến hành kiểu di chuyển dưới lòng đất trên quy mô lớn là trong chiến tranh Triều Tiên.

Cuộc diễn tập cung cấp một loạt bài học. Bóng tối hoàn toàn khiến kính nhìn đêm trở nên vô dụng. Việc xáo trộn nước tù đọng có thể giải phóng khí độc vào không khí, và binh lính có thể nhanh chóng sử dụng hết lượng oxy sẵn có. Nhiệt độ cũng thấp hơn, tới 10 độ C. Trung sĩ Mottley nói: “Bạn sẽ không di chuyển nhanh, trừ khi bạn được thao luyện đúng cách, và đã trải qua một thời gian dài ở đó,.

Những cách cũ thường tốt nhất. Trung sĩ Mottley nói rằng “thiết bị khai mỏ được đưa vào sử dụng từ những năm 1960, được chuyển giao cho quân đội, hữu ích hơn một số thiết bị mới hơn, đẹp hơn. Nhưng một số cách cũ hiện nay đã bị giới hạn. Các kỹ thuật từng được sử dụng để thông đường ở Việt Nam hay ở Afghanistan, ngày nay có thể bị coi là bất hợp pháp”. (chẳng hạn hơi cay, mặc dù được sử dụng thường xuyên chống lại những người biểu tình trong nước, nhưng phần lớn là bất hợp pháp trong chiến tranh.)

Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi các thành phố làm chậm quân đội: tốc độ tiến công bằng một phần ba đến một nửa so với chiến đấu ngoài đô thị.

Nhưng các thành phố không nhất thiết phải chết chóc hơn các chiến trường khác. Tổn thất về người và phương tiện của kẻ tấn công trong tác chiến đô thị không cao hơn so với tác chiến ngoài đô thị. Trong các trận chiến đô thị gần đây – trận Fallujah ở Iraq năm 2004 hay Marawi ở Philippines năm 2017 – thương vong của những kẻ tấn công rất thấp, chỉ hơn một người chết mỗi ngày và thấp hơn nhiều so với những người phòng thủ. Trên thực tế, thương vong cao nhất trong các cuộc tấn công đô thị do quân đội Liên Xô hoặc Nga gánh chịu – một thực tế nói lên nhiều điều về năng lực chiến thuật của Nga cũng như về chiến tranh đô thị.

Một báo cáo của Tập đoàn RAND, một tổ chức tư vấn của Mỹ, kết luận rằng tỷ lệ căng thẳng trong chiến đấu – cái từng được gọi là sốc đạn pháo – không cao hơn bình thường trong các trận đánh Brest ở Brittany năm 1944, Manila ở Philippines năm 1945 hoặc Huế tại Việt Nam vào năm 1968 (mặc dù hầu hết thường dân đã khôn ngoan rời đi trước khi cuộc giao tranh bắt đầu). Báo cáo cho thấy rằng, nghịch lý thay, cường độ chiến đấu trong đô thị mang lại cho binh lính cảm giác chủ động, kiểm soát và có mục đích cao hơn so với những người chiến đấu ở địa hình mở. Theo giai thoại, các lực lượng Ukraine đang đối mặt với làn đạn từ xa và không ngừng ở Donbas nói rằng việc không thể nhìn thấy kẻ thù cũng khiến đối phương mất tinh thần và mất sức lực như bất cứ thứ gì khác.

Thông thường là các đội quân trong cuộc tấn công phải đông hơn đối thủ của họ từ ba đến một để áp đảo một vị trí được phòng thủ. Một tài liệu hướng dẫn được xuất bản bởi quân đội và lính thủy đánh bộ Mỹ vào tháng 7 lưu ý rằng ở các khu vực thành thị, tỷ lệ này có thể tăng cao tới 15: 1.

Về lý thuyết, những tỷ lệ này có nghĩa là các lực lượng nhỏ hơn có cơ hội tốt hơn để ngăn chặn nhiều kẻ tấn công – như những gì người Ukraine đã làm ở Kyiv. Nhưng không phải lúc nào nó cũng hoạt động theo cách đó. Rốt cuộc, những người bảo vệ đô thị phải đối mặt với những tình huống khó xử của riêng họ. Một tiểu đoàn đơn lẻ có thể bảo vệ một số ít các tòa nhà, nhưng mỗi đơn vị sẽ phải vật lộn để nhìn xa hơn xung quanh, hỗ trợ cho những người khác hoặc bổ sung nguồn cung cấp và sơ tán thương vong. Do đó, một số lượng lớn quân phòng thủ có thể bị chốt cứng ở một số ít nơi “cố định”, và bị loại bỏ hoặc bỏ qua.

Stuart Lyle, chuyên gia đô thị tại Phòng thí nghiệm Khoa học và Công nghệ Quốc phòng của Anh cho biết: “Trong phần lớn các trận chiến đô thị mà chúng tôi đã kiểm tra,“ kẻ tấn công sẽ thắng ”. Ông Betz và Đại tá Stanford-Tuck chỉ ra các trận chiến giành Aachen, Groningen và Medicina vào năm 1944-45, nơi các lực lượng tấn công nhỏ hơn đánh bại quân phòng thủ lớn hơn, thường với thương vong rất thấp và trong trường hợp sau là vài giờ.

Trong tất cả những trường hợp này, những bước tiến nhanh, mạnh và nhiều mũi nhọn có thể làm tê liệt việc ra quyết định của đối phương. Chiến tranh tổng hợp vũ khí, với bộ binh, thiết giáp, pháo binh và máy bay phối hợp chặt chẽ với nhau, là yếu tố sống còn.

Xe tăng thường rất cần thiết, dù được cho là không phù hợp với những con đường thành phố chật hẹp, ngỗn ngang nhiều đống vật liệu. Đại tá Mansoor nhớ lại rằng trong cuộc chiến giành Thành phố Sadr ở Baghdad, các chiến binh Shia đã phá hủy sáu xe bọc thép hạng nhẹ Stryker bằng súng phóng tên lửa trong vòng một tuần. Các chỉ huy Mỹ đã buộc phải gửi những chiếc xe tăng Abrams lớn hơn nhiều “cung cấp sức mạnh vượt trội khi quân đội cần ở lại khu vực”.

Mặc dù nhiều thứ đã bị lãng quên trong hai thập kỷ qua, những vấn đề cơ bản của chiến tranh đô thị không phải là mới. Các thành phố đã bị san bằng, đào bới và tranh chấp kể từ thời cổ đại. Quân đội Liên Xô và phương Tây đều suy nghĩ sâu sắc về một trận chiến tiềm tàng ở Berlin, trong trường hợp chiến tranh lạnh trở nên nóng bỏng. Đại tá Collins nói: “Tất cả đều đã được học trước đây. Nhưng quân đội đã không dạy và nghiên cứu những vấn đề đó, và đó có lẽ là nỗi thất vọng lớn nhất.”

Nguồn: The Economist

You may also like

Leave a Comment