Sapiens: Lược sử về loài người

by admin

Trích dẫn Lời mở đầu và Chương 1 cuốn sách Sapiens: A Brief History of Humankind, tác giả Yuval Harari

 

Lời mở đầu

1.

“Tôi khuyến khích tất cả chúng ta, dẫu có những tin tưởng tín ngưỡng nào, để đặt câu hỏi về những thuật kể cơ bản về thế giới chúng ta, để nối những phát triển ngày xưa với những quan tâm ngày nay, và để không sợ hãi những vấn đề tranh luận” (Tác giả)

2.

Một trăm nghìn năm trước đây, ít nhất có sáu loài của con người cư ngụ trên mặt đất. Ngày nay chỉ còn một. Chúng ta. Homo Sapiens

Tại sao loài người chúng ta đã thành công trong cuộc chiến chiếm ngôi thống trị? Tại sao những tổ tiên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm của chúng ta đã đi đến cùng nhau thành lập những thành phố và những vương quốc? Tại sao chúng ta đã đi đến tin tưởng vào những gót, những quốc gia, và những quyền con người? tin cậy vào tiền bạc, sách vở, và luật pháp, và chịu nô lệ bởi guồng máy hành chính, lý thuyết đề cao tiêu thụ hàng hoá, và chạy theo sau chân của hạnh phúc? Và thế giới chúng ta sẽ giống như thế nào trong nghìn năm sắp tới?

Táo bạo, mở ra những tầm xa rộng, khơi động khiêu khích. Sapiens thách thức tất cả mọi sự vật việc chúng ta nghĩ chúng ta đã biết về con người: niềm tin của chúng ta, hành động của chúng ta, quyền năng của chúng ta

,… và tương lai của chúng ta.

3.

Sapiens, cuốn sách này, đưa chúng ta vào một chuyến đi kinh ngạc sững sờ qua toàn bộ lịch sử loài người, từ những gốc rễ tiến hóa của nó đến thời đại của chủ nghĩa tư bản và kỹ thuật di truyền, để khám phá tại sao chúng ta đang trong những điều kiện sinh sống hiện tại.

Sapiens tập trung vào các quá trình quan trọng đã định hình loài người và thế giới quanh nó, chẳng hạn như sự ra đời của sản xuất nông nghiệp, việc tạo ra tiền, sự lan truyền của những tôn giáo, và sự nổi lên của những nhà nước quốc gia. Không giống như những quyển sách khác cùng loại, Sapiens đã có một lối tiếp cận liên ngành học, bắc cầu qua những khoảng cách giữa lịch sử, sinh học, triết học và kinh tế theo một lối trước đây chưa từng có. Hơn nữa, lấy cả quan điểm vĩ mô và vi mô, Sapiens truyền tải không chỉ những gì đã xảy ra và tại sao, nhưng cũng còn qua lịch sử nếu đã như thế đó, những cá nhân trong lịch sử đó đã cảm nhận nó như thế nào.

Câu hỏi lớn và sâu của Harari là: chúng ta thực sự muốn gì? Có cách nào để đạt được hạnh phúc cho con người chúng ta, hoặc thậm chí liệu chúng ta có biết được nó là gì hay không? Nhiều những dẫn gợi của ông đến đạo Phật, và sự quan tâm ghi nhận của ông với thực hành suy tưởng thiền định, nhắc nhở đến thao thức của đạo Phật với khổ đau và ý tưởng làm vơi khổ đau con người, qua sự chấm dứt những ham muốn bất tận, ngầm cho chúng ta hiểu diễn giải của ông về những thăng trầm của lịch sử. Trong cốt lõi của nó, Sapiens biện luận rằng chúng ta không biết về bản thân chúng ta, huống chi biết được những nhu cầu của những loài sinh vật khác. Chúng ta đã quá thường xuyên bị những tưởng tượng hư cấu của chúng ta lừa dối. Lịch sử cũng là một hư cấu, nhưng một hư cấu đã được kiềm chế bởi thực tại và biện luận: một hình thức của huyền thoại – một hư cấu hữu ích – khiến nó có thể mang lại sự giác ngộ của sự tự biết chính mình.

4.

Giáo Sư Yuval Noah Harari sinh ở Haifa, Israel, năm 1976. Ông nhận bằng Tiến sĩ từ Đại học Oxford vào năm 2002, hiện là giảng viên Khoa Lịch sử, Đại học Hebrew ở Jerusalem.

Ông chuyên về lịch sử thế giới, lịch sử thời Trung cổ và lịch sử quân sự. Nghiên cứu hiện nay của ông tập trung vào những câu hỏi khái quát lớn, loại như: quan hệ giữa lịch sử và sinh học là gì? Sự khác biệt chủ yếu giữa Homo sapiensvà các động vật khác là gì? Có công lý trong lịch sử không? Liệu lịch sử có một hướng đi? Có phải con người trở nên hạnh phúc hơn không như lịch sử đã đang diễn ra?

Prof. Harari cũng dạy một giảng khoá mở online MOOC (Massive Open Online Course) Tóm tắt lịch sử của nhân loại. Hơn 80.000 sinh viên đến từ khắp thế giới đã tham dự giảng khoá này, lần đầu trong năm 2013. Lần thứ hai, trong ba tuần đầu tiên, bắt đầu vào tháng Tám năm 2014, đã có 30.000 sinh viên ghi tên tham dự. Tập sách Sapiens này, xem như bản in của giảng khoá, đã nằm trong danh sách những sách quốc tế bán chạy nhất, và được xuất bản trên khắp thế giới, trong gần 30 thứ tiếng.

Prof. Harari hai lần đoạt giải Giải thưởng Polonsky, hàng năm dành cho cộng đồng giảng dạy của trường đại học Hebrew Jerusalem, bộ môn khoa học Nhân văn, về tính Sáng tạo và Độc đáo (Polonsky Prizes for Creativity and Originality), trong những năm 2009 và 2012. Năm 2011, ông đoạt giải thưởng Moncado của Hội Lịch sử quân sự (Mỹ) cho các bài viết xuất sắc về lịch sử quân sự. Năm 2012 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học những người Israel trẻ tuổi (Young Israeli Academy of Sciences). 

Ông đã xuất bản nhiều sách và bài báo, trong đó có: Sapiens: A Brief History of Humankind. (London: Harvill Secker, 2014); The Ultimate Experience: Battlefield Revelations and the Making of Modern War Culture, 1450-2000 (Houndmills: Palgrave-Macmillan, 2008); Special Operations in the Age of Chivalry, 1100-1550 (Woodbridge: Boydell & Brewer, 2007).

Phần Một

Cuộc Cách mạng Nhận thức

Một dấu tay con người làm khoảng 30.000 năm trước đây, trên những bức tường của hầm Chauvet-Pont-d’Arc ở miền nam nước Pháp. Ai đó đã cố gắng như để nói, “Tôi đã ở đây!”

1

 

Một động vật vô nghĩa, không quan trọng

 

Khoảng 13,5 tỉ năm trước, vật chất, năng lượng, thời gian và không gian đã trở thành hiện hữu trong những gì được biết như là Big Bang. Câu chuyện của những đặc trưng cơ bản này của vũ trụ chúng ta được gọi là Vật lý.

Khoảng 300.000 năm sau sự xuất hiện của chúng, vật chất và năng lượng đã bắt đầu pha trộn nhau vào thành những cấu trúc phức tạp, gọi là những atom, chúng sau đó kết hợp thành những molecule. Câu chuyện của những atom, molecule và những tác động lẫn nhau của chúng được gọi là Hóa học.

Khoảng 3,8 tỉ năm trước đây, trên một hành tinh gọi là Quả đất, một số những molecule nào đó đã kết hợp để tạo thành những cấu trúc đặc biệt lớn và chi li phức tạp được gọi là những cấu trúc sống, hay những sinh vật. Câu chuyện của những sinh vật được gọi là Sinh học.

Khoảng 70.000 năm trước đây, những sinh vật thuộc loài Homo Sapiens đã bắt đầu thành hình những cấu trúc ngay cả còn phức tạp hơn, gọi là những văn hóa. Sự phát triển tiếp sau đó của những văn hóa này của con người được gọi là Lịch sử.

Ba cuộc cách mạng quan trọng đã định hình cho tiến trình của lịch sử: Cuộc Cách mạng Nhận thức đã phát khởi lịch sử, khoảng 70.000 năm trước đây. Cuộc Cách mạng Nông nghiệp đã làm nó tăng vận tốc thêm lên, khoảng 12.000 năm trước. Cuộc Cách mạng Khoa học, vốn bắt đầu tiến hành chỉ 500 năm trước, cũng rất có thể chấm dứt lịch sử và bắt đầu một một gì đó hoàn toàn khác biệt. Quyển sách này kể câu chuyện về ba cuộc cách mạng này đã có ảnh hưởng như thế nào vào loài người và những sinh vật đồng hành của họ.

Đã có những con người từ rất lâu trước khi có lịch sử. Những động vật rất giống như con người hiện đại, đầu tiên đã xuất hiện vào khoảng 2,5 triệu năm về trước. Nhưng trong chuỗi những thế hệ dài không đếm nổi, họ đã không có gì nổi bật so với vô vàn những sinh vật khác cùng chia sẻ môi trường sinh thái với họ.

Khoảng 2 triệu năm trước đây, trong một chuyến đi bộ đường dài giữa thiên nhiên hoang dã ở Đông Phi, bạn rất có thể đã gặp một khuôn hình quen thuộc của những nhân vật người: những bà mẹ đăm chiêu âu yếm đang ôm giữ những trẻ sơ sinh của họ, và những trẻ em vô tư đang chơi trong bùn; những thanh niên có tính khí nóng máu bực dọc chống lại những mệnh lệnh của xã hội, và những người già mệt mỏi chỉ muốn được bỏ mặc trong yên bình; những kẻ đầy nam tính vỗ ngực tự tôn, khi gắng gây ấn tượng với phái đẹp địa phương, và những trưởng tộc già lão khôn ngoan, là người đã từng nhìn thấy tất cả những sự việc đó rồi. Những con người sơ khai này, đã yêu, đã chơi, đã thành hình những tình bạn thân thiết, và đã tranh đua để dành địa vị và quyền lực – nhưng những con chimpanzee, những con baboon, và những con voi cũng đã đều làm như vậy. Không có gì đặc biệt về họ. Không ai, ít nhất là tất cả chính những con người này, không hề có đến một ý tưởng dù mơ hồ rằng con cháu của họ sẽ một ngày đi bộ trên mặt trăng, phân vỡ hạt atom, thấu hiểu được ký hiệu di truyền, và viết những sách lịch sử. Điều quan trọng nhất để biết về con người thời tiền sử là rằng họ là những động vật không đáng kể, gây tác động vào môi trường của họ, không nhiều hơn loài gorilla, loài đom đóm, hay loài jellyfish [1] .

Những nhà sinh vật học phân loại sinh vật vào thành những loài [2]. Động vật được nói là thuộc cùng loài nếu chúng có khuynh hướng giao hợp với nhau, sinh sản những con cái cũng lại có khả năng sinh sản. Loài ngựa và loài lừa có cùng một tổ tiên mới gần đây, và vẫn còn có chung nhiều đặc điểm thể chất. Nhưng chúng cho thấy ít có quan tâm tình dục với nhau. Chúng sẽ giao hợp nếu được dẫn dụ để làm như vậy – nhưng con của chúng, được gọi là con la, là vô sinh. Những đột biến trong DNA của lừa có thể do đó không bao giờ truyền sang ngựa, hoặc ngược lại. Hai loại động vật do đó được xem là hai loài riêng biệt, di chuyển dọc theo những đường tiến hóa riêng biệt. Ngược lại, một con chó giống bulldog và một con chó giống spaniel có thể trông rất khác biệt, nhưng chúng đều là thành viên của cùng một loài, cùng chia sẻ một “ao” DNA chung [3]. Chúng sẽ sẵn sàng vui thích giao hợp với nhau, và những con chó con của chúng sẽ lớn lên và sẽ bắt cặp với những con chó khác, và lại sẽ sinh sản thêm nhiều những con chó con khác nữa.

Loài sinh vật vốn đã tiến hóa từ một tổ tiên chung được gom lại dưới cùng một đề mục gọi là “chi” (“genus” số nhiều là “genera”) Sư tử, hổ, báo và báo đốm là những loài khác biệt trong cùng một chi làPanthera. Những nhà sinh vật học đặt tên những sinh vật với một tên Latin gồm hai phần, tên chi tiếp đến tên loài. Sư tử, lấy thí dụ, được gọi là Panthera leo, loài leo thuộc chi Panthera. Giả định là, tất cả mọi người đọc quyển sách này là một Homo Sapiens – chi “người” (Homo) thuộc loài “khôn ngoan” (Sapiens).

Những “chi”, đến phiên, chúng được gộp vào thành những “họ”, hay những gia đình (families), chẳng hạn như họ mèo (sư tử, báo cheetah, mèo nhà), họ chó (chó sói, cáo, chó rừng) và họ voi (voi, mammoths, mastodons). Tất cả những thành viên của một gia đình truy dõi dòng họ của mình ngược về một tổ phụ nam hay nữ. Tất cả những họ mèo, lấy thí dụ, từ những mèo nhà nhỏ nhất đến những con sư tử hung dữ nhất, chia sẻ một tổ tiên mèo chung, sống khoảng 25 triệu năm trước đây.

Homo Sapiens, cũng thế, thuộc về một gia đình. Thực tế vô vị tầm thường này đã thường là một trong những bí mật được gìn giữ chặt chẽ nhất trong lịch sử. Homo Sapiens đã từ lâu, vẫn thích tự xem mình như tách biệt với những loài động vật, như một trẻ mồ côi, bị lấy mất gia đình, thiếu anh chị em ruột hay anh chị em họ, và quan trọng nhất, không cha không mẹ. Nhưng đó đúng là không phải vậy. Dù, thích hay không thích; chúng ta đều là những thành viên của một gia đình lớn và đặc biệt ồn ào, gọi là họ ape lớn [4]. Những họ hàng còn sống gần nhất của chúng ta gồm loài chimpanzee, gorilla và orang-utans; Loài chimpanzee là gần nhất. Khoảng 6 triệu năm trước, một con ape nữ đơn độc đã có hai con gái. Một đã trở thành tổ tiên của tất cả những chimpanzee, một kia là bà tằng tổ cố ngoại riêng của chúng ta.

 

Những bộ Xương khô trong Tủ áo ẩn sau tường

 

Homo Sapiens đã dấu diếm một bí mật ngay cả còn gây xáo động lo lắng hơn. Không chỉ chúng ta thực đã có một số lượng đông đảo gồm những anh em họ không-văn minh, đã có một thời chúng ta hầu như có một số không ít những anh chị em ruột nữa. Chúng ta đã quen với suy nghĩ về chúng ta như những con người duy nhất, vì trong 10.000 năm vừa qua, loài động vật chúng ta đã quả thực là loài người duy nhất ở quanh đây. Tuy nhiên, ý nghĩa thực sự của từ “con người” là “một động vật thuộc chi Homo”, và đã từng có nhiều những loài khác của chi này bên cạnh Homo Sapiens. Thêm nữa, như chúng ta sẽ thấy trong chương cuối của tập sách, trong tương lai không xa chúng ta có thể lại phải tranh đua với những con người không-Sapiens. Để làm rõ điểm này, tôi sẽ thường sử dụng từ “Sapiens” để chỉ những thành viên của loài Homo Sapiens, trong khi dành riêng từ “con người” để chỉ tất cả những thành viên còn sót lại của chi Homo.

Con người đã tiến hóa đầu tiên ở Đông Phi khoảng 2,5 triệu năm trước, từ một chi trước của ape gọi là Australopithecus, có nghĩa là ‘Ape phương Nam’. Khoảng 2 triệu năm trước đây, một số trong những người nam và nữ sơ khai này đã bỏ quê hương của họ để làm một chuyến đi dài băng qua và định cư ở những khu vực rộng lớn của Bắc Phi, Châu Âu và Châu Á. Vì sống còn trong những khu rừng tuyết của Bắc Âu đã đòi hỏi những đặc tính xác định di truyền [5] khác biệt so với của những đặc tính di truyền đã cần thiết để sống còn trong rừng nhiệt đới hết sức nóng bức của Indonesia, quần thể loài người đã tiến hóa trong những hướng khác biệt. Kết quả đã là có nhiều loài khác biệt; với mỗi loài, những nhà khoa học đã gán cho một tên Latin nghe rất kêu.

Những anh chị em của chúng ta, tái tạo theo suy đoán (trái sang phải): Homo rudolfensis (Đông Phi);Homo erectus (Đông Á); và Homo neanderthalensis (Châu Âu và Tây Á). Tất cả đều là con người.

Con người ở châu Âu và Tây Á đã tiến hóa thành Homo neanderthalensis (‘Người từ thung lũng Neander), thường được gọi phổ thông là “người Neanderthal”. Những người Neanderthal, dềnh dàng hơn và bắp thịt vạm vỡ hơn chúng ta, những Sapiens, đã thích nghi giỏi với khí hậu lạnh của thời kỳ Băng Giá (Ice Age) của vùng Tây Eurasia. Những khu vực xa hơn về hướng đông của châu Á đã có dân cư là những Homo erectus, ‘Người Đứng Thẳng’, những người đã sống sót ở đó trong gần 2 triệu năm, điều đó làm họ thành loài người từng bao giờ lâu bền nhất. Kỷ lục này thì khó có thể phá, ngay cả bởi chính loài chúng ta. Điều nghi ngờ là không biết Homo Sapiens sẽ vẫn còn quanh đây khoảng một nghìn năm từ giờ về sau hay không, thế nên 2 triệu năm thì thực sự ngoài sự vươn tới của đoàn ngũ chúng ta.

Trên đảo Java, ở Indonesia, đã sống những Homo soloensis, ‘Người từ thung lũng Solo’, là người đã thích ứng với sự sống trong vùng nhiệt đới. Trên một hòn đảo khác của Indonesia – hòn đảo nhỏ Flores – những người cổ đã trải qua một tiến trình của sự còi cọc. Những con người đầu tiên đến đảo Flores khi mực nước biển đã đặc biệt thấp, và đã dễ dàng đến được đảo từ đất liền. Khi mực nước biển đã dâng cao trở lại, một số người đã bị kẹt lại trên đảo, vốn đã vẫn nghèo về tài nguyên. Những người có tầm vóc to lớn, người cần rất nhiều thức ăn, chết trước. Những đồng bạn nhỏ vóc người hơn, ho sống sót giỏi hơn nhiều. Qua những thế hệ, cư dân của Flores đã trở thành những người lùn. Loài độc đáo này, được những nhà khoa học gọi tên là Homo floresiensis, đạt chiều cao tối đa chỉ có một mét, và nặng không quá hai mươi lăm kilôgram. Dẫu vậy, họ vẫn có khả năng sản xuất những dụng cụ bằng đá, và ngay cả đôi khi vẫn xoay sở để săn bắt một vài con voi của đảo – Tuy nhiên, để cho công bằng, những con voi này đã cũng là một loài lùn như họ.

Năm 2010, một anh chị em thất lạc khác, đã được cứu thoát khỏi lãng quên, khi những nhà khoa học khai quật Hang Denisova ở Siberia, đã khám phá ra một xương ngón tay đã hóa thạch. Phân tích di truyền đã chứng minh rằng ngón tay thuộc về một loài người trước đó chưa từng biết, đã đặt tên làHomo Denisova. Ai biết được đã có bao nhiêu những người thân đã thất lạc của chúng ta đang chờ để được khám phá trong những hang động khác, trên những hòn đảo khác, và trong những khí hậu khác.

Trong khi những con người này đang tiến hóa ở châu Âu và châu Á, sự tiến hóa ở Đông Phi đã không dừng lại. Cái nôi của nhân loại đã tiếp tục nuôi dưỡng nhiều loài mới, chẳng hạn như Homo rudolfensis,‘Người ở vùng Hồ Rudolf’, Homo ergaster, ‘Người Làm việc’, và cuối cùng là loài riêng của chúng ta, mà chúng ta đã không khiêm tốn chút nào, xưng tên là Homo Sapiens, ‘Người Khôn ngoan’ .

Những thành viên của một số loài trong số này là rất to lớn, và những loài khác là những người lùn. Một số đã là những người đi săn trông đáng sợ, và những người khác là những người hiền lành hái lượm thực vật. Một số chỉ sống trên một hòn đảo duy nhất, trong khi nhiều loài khác đã lang thang trên những lục địa. Nhưng họ đều tất cả thuộc về chi Homo. Họ đã tất cả là những con người.

Đó là một dối trá phổ biến để hình dung những loài này như được sắp xếp theo một đường thẳng của dòng dõi, với Ergaster đã sinh ra ErectusErectus đã sinh ra những Neanderthal và những Neanderthaltiến hóa vào thành chúng ta. Mô hình đường thẳng này đem cho ấn tượng sai lầm rằng ở bất cứ mỗi thời điểm cụ thể nào, chỉ có một loại của con người sống trên mặt đất, và rằng tất cả những loài trước đó đã không gì hơn nhưng chỉ là những mô hình cũ hơn của chúng ta. Sự thật là từ khoảng 2 triệu năm trước cho đến khoảng 10.000 năm trước đây, thế giới đã là nhà ở, tại một chỗ và cùng một thời điểm, của nhiều những loài người. Và tại sao không? Ngày nay có rất nhiều loài cáo, loài gấu, và loài lợn. Quả đất của một trăm nghìn năm trước đây, đã có ít nhất sáu loài khác biệt của con người bước đi trên đó. Độc cứ của chúng ta là trong hiện tại, không phải của quá khứ vốn đã gồm nhiều loài, điều đó là khác thường – và có lẽ đáng buộc tội. Như chúng ta sẽ sớm thấy, Những Sapiens chúng ta có những lý do hiển nhiên để dìm khuất ký ức về những anh chị em của chúng ta.

 

Phí tổn của sự Suy nghĩ

 

Dẫu nhiều những khác biệt của họ, tất cả những loài người chia sẻ một số đặc điểm rõ nét. Đáng ghi nhận nhất, người có bộ óc cực kỳ lớn so với những động vật khác. Động vật lớp có vú nặng sáu mươi kg có kích thước não trung bình là 200 cm khối. Những người nam và nữ, xuất hiện sớm nhất, 2,5 triệu năm trước, đã có bộ óc khoảng 600 cm khối. Những Sapiens hiện đại “ngất ngưởng” với một bộ óc trung bình 1,200-1,400 cm khối. Não Neanderthal thậm chí còn lớn hơn.

Rằng sự tiến hóa nên chọn lấy những bộ óc lớn hơn, có thể đối với chúng ta có vẻ, vâng, không cần phải nghĩ ngợi. Chúng ta quá mê đắm với sự thông minh khác thường của chúng ta khiến chúng ta cho rằng khi nói đến khả năng thông minh của bộ óc, càng nhiều phải càng hay hơn. Nhưng nếu đó đã là sự thể xảy ra, họ nhà mèo ắt cũng đã sinh sản ra những con mèo có thể làm những phép toán calculus. Tại sao chi Homo là duy nhất trong toàn bộ vương quốc động vật đã đi đến với những bộ máy suy nghĩ lớn nặng quá mức như vậy?

Thực tế là một bộ óc lớn quá khổ là một ống cống lớn quá khổ hút cạn kiệt cơ thể. Không dễ dàng để tha nó đi quanh, đặc biệt là khi nó được bọc kín bên trong một vỏ (xương) sọ lớn. Thậm chí còn khó khăn hơn để tiếp dưỡng nhiên liệu cho nó. Trong Homo Sapiens, não chiếm khoảng 2-3 phần trăm của tổng số trọng lượng cơ thể, nhưng nó tiêu thụ 25 phần trăm năng lượng của cơ thể khi cơ thể nghỉ ngơi. Để so sánh, bộ óc của những con Ape khác chỉ đòi hỏi 8 phần trăm của năng lượng khi cơ thể nghỉ ngơi. Con người sơ khai đã trả tổn phí cho bộ óc lớn của họ trong hai cách. Thứ nhất, họ đã tốn nhiều thì giờ hơn để tìm thức ăn. Thứ hai, những bắp thịt của họ bị teo dần, thành nhỏ yếu. Giống như một chính phủ chuyển ngân quỹ từ quốc phòng sang giáo dục, con người chuyển năng lượng từ những bắp thịt sang những tế bào thần kinh. Một một kết luận không thể tránh, đó là hầu như không thể nói rằng đây là một chiến lược tốt để sống còn trên đồng cỏ. Một con chimpanzee không thể thắng một cuộc tranh biện với một Homo Sapiens, nhưng con ape có thể xé xác con người giống như xé một con búp bê kết bằng rẻ rách.

Ngày nay, bộ óc lớn của chúng ta tử tế trả hết phí tổn, vì chúng ta có thể sản xuất xe ô tô, và súng, chúng cho chúng ta khả năng di chuyển nhanh hơn nhiều so với chimpanzee, và bắn chúng từ một khoảng cách an toàn, thay vì phải ôm vật với chúng. Nhưng xe và súng là một hiện tượng mới. Trong hơn 2 triệu năm, mạng lưới nơron tiếp tục tăng trưởng và phát triển, nhưng ngoài một số dao bằng đá mài và que nhọn, con người đã có rất ít đồ quí giá để đem nó ra trưng bày. Như thế, điều gì đã đẩy tới trước sự tiến hóa của bộ óc to lớn của con người trong 2 triệu năm đó? Thành thật mà nói, chúng ta không biết.

Một nét độc đáo khác của con người là chúng ta bước đi trên hai chân với lưng thẳng đứng. Đứng thẳng lên, đó là dễ dàng hơn để nhìn vượt trên khắp đồng cỏ khi tìm con mồi hoặc nhũng kẻ địch, và những cánh tay khi không cần thiết cho sự di động đã được trả tự do cho những mục đích khác, như ném đá hoặc ra dấu làm hiệu. Càng nhiều hơn những công việc những bàn tay này có thể làm thêm, càng thành công hơn cho những chủ nhân của chúng, áp lực tiến hóa như thế đã là nguyên nhân tạo nên một sự tập trung dày đặc của những dây thần kinh và những bắp thịt được uốn rèn tinh tế trong lòng bàn tay và những ngón tay. Kết quả là, con người có thể thực hiện những công việc rất chi ly phức tạp với hai bàn tay của họ. Đặc biệt, họ có thể sản xuất và sử dụng những dụng cụ tinh xảo. Bằng chứng đầu tiên cho sự sản xuất dụng cụ được định năm tháng khoảng 2,5 triệu năm trước, và việc sản xuất và sử dụng những dụng cụ là những tiêu chuẩn vốn qua chúng những nhà khảo cổ nhận ra con người thời cổ.

Tuy nhiên, đi thẳng người có nhược điểm của nó. Bộ xương của tổ tiên bộ linh trưởng [6] của chúng ta đã phát triển trong hàng triệu năm để chống đỡ cho một sinh vật vốn bước đi bằng bốn chân và có một cái đầu tương đối nhỏ. Điều chỉnh sang một vị trí thẳng đứng đã gần như một thách thức, đặc biệt là khi những giàn dựng của bộ xương đã phải hỗ trợ một bộ xương sọ cực lớn. Loài người đã phải chịu phí tổn cho tầm nhìn cao và bàn tay cần cù khéo léo với những bệnh đau lưng và cứng cổ.

Phụ nữ phải chịu thêm tổn phí. Một dáng đi thẳng đứng đòi hỏi xương hông hẹp (giữ thăng bằng), nên thắt hẹp ống dẫn đẻ – và điều này xảy ra đúng khi những đầu của trẻ sơ sinh được dần dần thành to hơn. Chết khi sinh con đã trở thành một mối nguy hiểm lớn với người nữ. Những phụ nữ nào đã sinh con sớm hơn, khi não và đầu trẻ sơ sinh tương đối vẫn còn nhỏ và mềm, ở vào tình trạng tốt hơn và sống sót để có thêm con. Chọn lọc tự nhiên do đó ủng hộ những sinh nở sớm. Và, quả thật, so với những động vật khác, con người đã được đẻ non, khi còn rất nhiều những hệ thống quan trọng của cơ thể họ vẫn chưa phát triển trọn vẹn. Một con ngựa con có thể phóng chạy ngay sau khi sinh; một con mèo con rời mẹ nó, một mình đi kiếm thức ăn, khi nó chỉ được một vài tuần. Những trẻ sơ sinh của con người thì bất lực, phải tuỳ thuộc nhiều năm vào những người lớn tuổi của chúng để được nuôi dưỡng, bảo vệ và giáo dục.

Sự kiện này đã đóng góp rất lớn cho cả hai: cho khả năng xã hội khác thường của con người và cho những vấn đề xã hội duy nhất xảy ra với nó. Những người mẹ đơn độc khó có thể kiếm đủ thức ăn cho con cái và bản thân họ với bầy trẻ thiếu thốn đứng dài như đuôi sau lưng. Nuôi trẻ con cần sự giúp đỡ liên tục từ những thành viên của những gia đình khác và của hàng xóm. Cần cả một bộ tộc để nuôi dạy thành khôn lớn một con người. Tiến hóa do đó ủng hộ những ai có khả năng thành hình những quan hệ xã hội chặt chẽ. Thêm nữa, vì con người được sinh ra nhưng còn vẫn chưa phát triển đầy đủ, họ có thể được giáo dục và được xã hội hoá đến một mức độ lớn hơn nhiều so với những loài động vật khác. Hầu hết những động vật lớp có vú lọt khỏi lòng mẹ như đất nung tráng men lấy ra từ một lò nung – bất kỳ nỗ lực uốn nắn nào đều sẽ làm trầy xước hoặc phá vỡ chúng. Con người từ trong bụng mẹ chui ra, như thủy tinh nóng chảy mới lấy từ một lò lửa. Họ có thể được xe sợi, kéo dài và tạo hình dạng với một mức độ tự do đáng ngạc nhiên. Đây là tại sao ngày nay chúng ta có thể giáo dục con em chúng ta để trở thành theo đạo Kitô hay đạo Phật, theo chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội, thành hiếu chiến hay yêu hòa bình.

*

Chúng ta giả định rằng một bộ óc lớn, việc sử dụng những dụng cụ, khả năng học tập cao và những cấu trúc xã hội phức tạp là những lợi thế rất lớn. Điều xem dường hiển nhiên là những sự việc này khiến loài người thành những động vật có quyền năng nhất trên quả đất. Nhưng con người được hưởng tất cả những lợi thế này trọn vẹn trong suốt 2 triệu năm, trong thời gian đó họ vẫn còn là những sinh vật yếu đuối và nằm ngoài rìa của giới động vật. Như thế, những con người đã sống một triệu năm trước đây, dẫu có bộ óc lớn và những dụng cụ bằng đá sắc bén, đã sống trong sợ hãi liên tục những con thú săn mồi, hiếm khi săn những con thú lớn, và sinh sống chủ yếu bằng cách thu nhặt những cây cỏ, đào bới tìm côn trùng, rình rập những loài động vật nhỏ, và ăn thịt thối còn thừa của những động vật ăn thịt khác mạnh hơn bỏ lại.

Một trong những cách dùng phổ thông nhất của những dụng cụ bằng đá đầu tiên đã là ghè xương dập ra để moi đến tận tủy. Một số những nhà nghiên cứu tin rằng đây là ưu thế ban đầu của chúng ta. Cũng giống như chim gõ kiến chuyên khều rút những loài côn trùng ra từ những thân cây, những con người đầu tiên có chuyên môn trong việc moi móc lấy tủy xương. Tại sao lại tủy? Vâng, giả sử bạn quan sát một con sư tử ngạo nghễ vừa vật ngã và cắn xé ngấu nghiến một con hươu cao cổ. Bạn kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi nó ăn xong. Nhưng vẫn chưa đến lượt bạn, vì thoạt tiên là những con chó hyenas vàjackals – và bạn không dám chen vào với chúng để nhặt vét những thức ăn thừa. Chỉ sau đó, bạn và bầy đoàn của bạn mới dám đến gần xác con vật còn trơ lại, thận trọng nhìn trái và phải – và bới vào những mảnh xương dính thịt vẫn còn ăn được.

Đây là chìa khóa để hiểu lịch sử và tâm lý của chúng ta. Vị trí của chi Homo trong Chuỗi Thức ăn, cho đến thời gian gần đây, đứng vững ở khoảng giữa. Trong hàng triệu năm, con người săn bắt những sinh vật nhỏ hơn và nhặt nhạnh những gì họ có thể hái lượm, tất cả trong khi vẫn bị những con thú săn mồi lớn hơn săn đuổi. Đã chỉ trong 400.000 năm trước đây, một số loài của con người mới bắt đầu thường xuyên săn bắt những con thú lớn, và chỉ trong 100.000 năm vừa qua – với sự nổi lên của Homo Sapiens – con người mới nhảy lên đỉnh của Chuỗi thức ăn (trong đó cho thấy động thực vật nào ăn động thực vật nào để sống).

Bước nhảy ngoạn mục đó từ giữa đến đỉnh có những hậu quả to lớn. Những động vật khác ở trên đỉnh pyramid của chuỗi thức ăn, như sư tử và cá mập, đã tiến hoá vào vị trí đó rất từ từ, qua hàng triệu năm. Điều này cho phép những hệ sinh thái phát triển những tự kiểm soát và cân bằng để ngăn chặn sư tử và cá mập không gây tàn hoại quá lớn lao. Khi loài sư tử thành nguy hiểm mất mạng, do đó loài gazelles đã tiến hóa để chạy nhanh hơn, loài hyenas để biết hợp đoàn tốt hơn, và loài tê giác để thành nóng nảy xấu tính hơn. Ngược lại, loài người lên tới đỉnh như thế một cách quá nhanh chóng khiến những hệ sinh thái đã không có thời giờ điều chỉnh. Thêm nữa, con người đã thất bại, không thể tự điều chỉnh. Hầu hết những động vật ăn thịt đứng đầu của hành tinh là những sinh vật oai hùng và tự trọng. Hàng triệu năm thống trị đã làm chúng đầy sự tự tin. Sapiens ngược lại, giống như một nhà độc tài của những quốc gia nhỏ chuyên sống bằng trồng chuối bán chuối lấy ngoại viện. Sau một thời gian vừa mới đây còn là một trong những con thú yếu kém của đồng cỏ, chúng ta có đầy những sợ hãi và những lo lắng với vị trí mới của chúng ta, làm cho chúng ta độc ác và nguy hiểm gấp đôi. Nhiều những tai ương lịch sử, từ những chiến tranh chí tử hàng loạt, đến những thảm họa trong môi trường sinh thái, đã là kết quả từ bước nhảy quá vội vàng này.

 

Một cuộc chạy đua của những người nấu bếp

 

Một bước quan trọng đáng chú ý trên con đường lên đến đỉnh của chuỗi thức ăn là sự thuần hoá lửa. Một vài loài người có thể đã thỉnh thoảng có cơ hội dùng lửa, cũng sớm đến từ 800.000 năm trước. Đến khoảng 300.000 năm trước, Homo erectus, người Neanderthal và những tổ tiên của Homo Sapiens đã sử dụng lửa trên một cơ sở hàng ngày. Con người bây giờ đã có một nguồn tin cậy của ánh sáng và sự ấm áp, và một vũ khí giết hại để chống lại loài sư tử rình mò. Không lâu sau đó, con người có thể ngay cả đã bắt đầu cố tình để đốt trụi chính những vùng hàng xóm của họ. Một ngọn lửa được tính toán cẩn thận có thể biến những bụi cây cằn cỗi không quả ăn, chằng chịt không thể vượt qua, thành những đồng cỏ đầy thú mồi. Ngoài ra, khi ngọn lửa đã tàn, những nhà làm ăn kỷ Đồ Đá có thể đã dạo bước qua đám khói, và thu hoạch những động vật, những loại hạt và củ, tất cả đã được nướng chín.

Nhưng điều tốt nhất lửa đã làm là nấu chín thức ăn. Những thực phẩm mà con người không thể tiêu hóa trong dạng tự nhiên của chúng – chẳng hạn như lúa mì, gạo và khoai tây – đã trở thành lương thực chủ yếu của sự dinh dưỡng hàng ngày của chúng ta, nhờ vào việc nấu ăn. Lửa không chỉ thay đổi hóa học của thực phẩm, nó cũng thay đổi sinh học của nó nữa. Nấu nướng giết chết những vi trùng và ký sinh trùng vốn đã lan nhiễm trong thực phẩm. Con người cũng đã có một thời gian dễ dàng hơn nhiều để nhai và tiêu hóa những món yêu thích cũ, như những trái cây, những loại hạt, những côn trùng và xác động vật thối rữa nếu chúng được nấu chín. Chimpanzee mất hết năm giờ một ngày để nhai thức ăn thô, trong khi đó, chỉ một giờ cũng đủ cho mỗi người ăn thực phẩm nấu chín.

Sự ra đời của sự nấu chín thức ăn đã đem cho cho con người khả năng để ăn được nhiều loại thức ăn, để tốn ít thời gian hơn vào việc ăn, và để ứng biến với răng nhỏ hơn và ruột ngắn hơn. Một số học giả tin rằng có một liên kết trực tiếp giữa sự ra đời của sự nấu ăn, sự rút ngắn đường ruột con người, và sự phát triển của bộ óc con người. Bởi ruột dài và bộ óc lớn, cả hai đều là những tiêu thụ năng lượng rất lớn, thật khó để có cả hai. Bằng cách rút ngắn ruột và giảm sự tiêu thụ năng lượng của chúng, sự nấu ăn đã vô tình mở đường đến bộ óc to khác thường của người Neanderthal và Sapiens. [7]

Lửa cũng đã mở ra vực sâu ngăn cách quan trọng đầu tiên giữa con người và những loài động vật khác. Quyền năng của gần như tất cả những loài động vật tuỳ thuộc vào cơ thể của chúng: sức mạnh bắp thịt của chúng, kích thước răng nhọn của chúng, chiều dài cánh bay của chúng. Dẫu chúng có thể khai thác sức gió và những dòng nước cuốn, chúng không có khả năng kiểm soát những sức mạnh tự nhiên này, và luôn luôn phải chịu giới hạn từ thể dạng sẵn có của chúng. Loài chim ưng, lấy thí dụ, đón nhận được những luồng không khí nóng bốc lên từ mặt đất, dang rộng đôi cánh khổng lồ của chúng và để cho cột gió nóng nâng bổng chúng lên. Tuy nhiên, loài chim ưng không thể điều khiển vị trí của những luồng gió nóng, và khả năng chuyên chở tối đa của chúng tỉ lệ chặt chẽ với sải cánh bay của chúng.

Khi con người đã thuần hoá ngọn lửa, họ đã nắm được một sức mạnh tuân phục và có khả năng vô hạn. Không giống như loài chim ưng, con người có thể chọn khi nào và ở đâu để đốt lên một ngọn lửa, và họ có thể khai thác lửa cho một số nhiệm vụ bất kỳ nào. Quan trọng nhất, sức mạnh của lửa đã không bị giới hạn bởi những hình thức, cấu tạo, sức mạnh của cơ thể con người. Một người phụ nữ đơn độc với một viên đá lửa, hoặc que gỗ cháy có thể thiêu rụi toàn bộ một khu rừng trong một vài giờ. Sự thuần hoá lửa là một dấu hiệu của những sự việc sắp xảy đến.

 

Những người chăm sóc cho những anh em của chúng ta

 

Dẫu có những lợi ích của lửa, 150.000 năm trước đây con người vẫn là sinh vật thứ yếu. Bấy giờ họ có thể xua đuổi sư tử, sưởi ấm họ trong những đêm lạnh, và thỉnh thoảng đốt trụi rừng. Tuy nhiên, đếm tất cả những loài người với nhau, chỉ vẫn có không hơn khoảng một triệu con người sống giữa quần đảo Indonesia và bán đảo Iberia, một đốm sáng lập loè trên màn ảnh radar sinh thái.

Loài riêng của chúng ta, Homo Sapiens, đã có mặt rồi trên sân khấu thế giới, nhưng cho đến khi đó, nó đã chỉ lo những công chuyện riêng của mình, trong một góc của châu Phi. Chúng ta không biết chính xác ở đâu, và khi nào những động vật có thể được phân loại là Homo Sapiens đầu tiên đã tiến hóa từ một vài loại trước đó của con người, nhưng hầu hết những nhà khoa học đồng ý rằng khoảng 150.000 năm trước, những Sapiens mà trông giống như chúng ta đã cư trú ở vùng Đông Phi. Nếu một trong số họ hiện lên trong một nhà xác hiện đại, những y sĩ ngành bệnh lý học ở đó sẽ không nhận thấy có gì đặc biệt. Nhờ vào những ơn huệ của lửa, họ đã có răng và hàm nhỏ hơn so với tổ tiên của họ, trong khi họ đã có bộ óc lớn, bằng kích thước với của chúng ta.

Những nhà khoa học cũng đồng ý rằng khoảng 70.000 năm trước đây, Sapiens từ Đông Phi đã lan rộng sang bán đảo Arab, và từ đó họ đã nhanh chóng tràn ngập toàn bộ vùng đất liền Á-Âu bao la.

Khi Homo Sapiens đặt chân lên bán đảo Arab, hầu hết lục địa Á-Âu đã có những loài người khác định cư. Những gì xảy ra với họ? Có hai lý thuyết mâu thuẫn nhau. “Thuyết Lai giống” [8] kể một câu chuyện về sự hấp dẫn, phái tính và pha trộn. Khi những di dân từ châu Phi lan truyền ra khắp thế giới, họ giao phối với những quần thể con người khác, và con người ngày nay là kết quả của sự lai giống này.

Lấy thí dụ, khi Sapiens đạt đến Trung Đông và châu Âu, họ đã gặp những Neanderthal. Những con người này có bắp thịt vạm vỡ hơn những Sapiens, có bộ óc lớn hơn, và đã thích nghi khéo hơn với những vùng có thời tiết lạnh. Họ đã dùng những dụng cụ và lửa, là những người săn thú giỏi, và có thể thấy rằng đã chăm sóc những người bệnh và tàn tật của họ. (Những nhà khảo cổ đã tìm ra ra xương của những Neanderthal là người đã sống trong nhiều năm với tật nguyền về thể chất nghiêm trọng, bằng chứng rằng họ đã được những người thân của họ chăm sóc). Những người Neanderthal thường được vẽ trong tranh hí hoạ như những người “ăn lông ở lỗ”, sống trong hang động, rập khuôn hình ảnh của sự thô lỗ và ngu độn, nhưng bằng chứng gần đây thay đổi hình ảnh của họ.

Theo lý thuyết Lai giống, khi những Sapiens lan sang những vùng đất của người Neanderthal, Sapiensđã giao phối với những người Neanderthal cho đến khi hai quần cư sát nhập. Nếu đây là trường hợp xảy ra, Những người Âu Á ngày nay không phải thuần Sapiens. Họ là một hỗn hợp của Sapiens vàNeanderthals. Tương tự như vậy, khi Sapiens đến Đông Á, họ lai giống với những Erectus địa phương, như thế người Tàu và Hàn là một hỗn hợp của những Sapiens và những Erectus.

Quan điểm đối lập, gọi là ‘Thuyết Thay thế’ [9] kể một câu chuyện rất khác biệt – một của sự không tương đồng, sự ghê tởm, và có lẽ ngay cả sự diệt chủng. Theo lý thuyết này, Sapiens và những loài người khác đã có cấu trúc cơ thể khác biệt, và rất có nhiều cơ hội xảy ra rằng có thói quen giao phối khác biệt và ngay cả có những mùi cơ thể khác biệt. Họ có thể hẳn đã ít có quan tâm tình dục với nhau. Và ngay cả nếu một Romeo Neanderthal và một Juliet Sapiens yêu nhau, họ đã không thể sinh sản được con cái mà chúng có thể tiếp tục có con cái được, vì hố sâu ngăn cách gene phân tách hai quần thể dân cư là đã không thể vượt qua được. Hai quần thể vẫn hoàn toàn khác biệt, và khi người Neanderthal chết hết, hoặc bị giết sạch, gene của họ đã chết với họ. Theo quan điểm này, Sapiens thay thế tất cả những quần thể người có trước đó mà không trộn nhập với họ. Nếu đó là trường hợp, những dòng dõi của tất cả con người hiện đại có thể được truy trở lại, loại trừ hết tất cả, về Đông Phi, 70.000 năm trước. Chúng ta là tất cả ‘thuần Sapiens’.

Homo Sapiens chinh phục thế giới

Rất nhiều còn tuỳ thuộc vào cuộc tranh luận này. Từ một quan điểm tiến hóa, 70.000 năm là một khoảng thời gian tương đối ngắn. Nếu thuyết Thay thế là đúng, tất cả con người hiện đang sống đều có mớ hành lý di truyền xấp xỉ giống nhau, và những khác biệt đặc biệt về chủng tộc trong số đó là không đáng kể. Nhưng nếu thuyết Lai giống là đúng, có thể cũng có những khác biệt di truyền giữa người châu Phi, châu Âu và châu Á đó quay ngược trở lại hàng trăm nghìn năm. Đây là thuốc nổ chính trị, vốn nó có thể cung cấp nguyên liệu cho những lý thuyết kỳ thị chủng tộc bùng nổ.

Trong những chục năm gần đây, thuyết Thay thế đã là sự khôn ngoan phổ thông trong lĩnh vực này. Nó có sự ủng hộ về khảo cổ vững chắc hơn, và đã là đúng đắn trong ăn nói chính trị nhiều hơn (Những nhà khoa học không có mong muốn mở hộp của Pandora về kỳ thị chủng tộc bằng cách tuyên bố có sự đa dạng di truyền đáng kể trong những quần thể con người hiện đại). Nhưng điều đó đã chấm dứt vào năm 2010, khi những kết quả của một nỗ lực bốn năm, để lập genome [10] của người Neanderthal, đã được công bố. Những nhà di truyền học đã có khả năng thu thập đủ DNA Neanderthal nguyên vẹn từ những hóa thạch để làm một so sánh rộng rãi rõ ràng giữa nó và DNA của con người hiện đại. Những kết quả đã làm choáng váng cộng đồng khoa học.

Hóa ra là 1- 4 phần trăm của những DNA duy nhất đặc biệt của con người của quần thể hiện đại ở Trung Đông và châu Âu là DNA Neanderthal. Đó không phải là một số lượng rất lớn, nhưng nó có ý nghĩa. Vài tháng sau đó đến một cú sốc choáng váng thứ hai, khi DNA trích từ những ngón tay hóa thạch khai quật trong hang Denisova (ở Trung Á) được định vị trí trong biểu đồ những chromosomes [11]. Những kết quả đã chứng minh rằng có đến 6 phần trăm của những DNA duy nhất đặc biệt của những người Melanesians hiện đại và thổ dân Australia là DNA của người Denisova [12].

Nếu những kết quả này là có cơ sở chắc chắn – và là điều quan trọng để nhớ rằng vẫn đang tiến hành nghiên cứu thêm, và chúng có thể hoặc làm vững vàng hơn hoặc thay đổi những kết luận này – những người theo thuyết Lai giống ít nhất đã có một số điều đúng. Nhưng điều đó không có nghĩa là những người theo thuyết Thay thế là hoàn toàn sai. Bởi người Neanderthal và Denisovan chỉ đóng góp một lượng nhỏ DNA vào bộ genome ngày nay của chúng ta, khiến là không thể nói về một sự ‘sát nhập’ giữa Sapiens và những loài khác của con người. Dẫu sự khác biệt giữa họ đã không đủ lớn để hoàn toàn ngăn chặn sự giao hợp di truyền giòng dõi, chúng đã đủ để làm thành những liên hệ rất hiếm như vậy.

Nếu như thế, chúng ta nên hiểu quan hệ sinh học của loài Sapiens, loài Neanderthal và loài Denisovan như thế nào? Rõ ràng, họ không phải là loài hoàn toàn khác biệt như loài ngựa và loài lừa. Mặt khác, họ không phải chỉ là những quần thể dân cư khác biệt của cùng một loài, giống như chó bulldogs và spaniels. Thực trạng sinh học không như màu trắng và màu đen. Ngoài ra cũng còn có những vùng quan trọng màu xám. Cứ hai loài tiến hóa từ một tổ tiên chung, như ngựa và lừa, đã tại một thời điểm chỉ là hai quần thể của cùng một loài, giống như con chó bulldogs và spaniels. Phải từng có một điểm khi hai quần thể là đã hoàn toàn khác biệt, nhưng vẫn có khả năng vào những dịp hiếm hoi có quan hệ tình dục và sản sinh con cái có khả năng sinh sản tiếp nối. Sau đó, một đột biến [13] khác cắt đứt sợi kết nối cuối cùng này, và họ đã đi theo con đường tiến hoá riêng biệt của họ.

Dường như vào khoảng 50.000 năm trước đây, Sapiens, Neanderthals và Denisovans đã ở trên điểm phân biên giới đó. Họ gần như, nhưng không hoàn toàn, là những loài hoàn toàn riêng biệt. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, Sapiens là đã rất khác so với người Neanderthal và Denisovans không chỉ trong những ký hiệu di truyền và những đặc điểm thể chất của họ, nhưng cũng trong những khả năng nhận thức và kết hợp xã hội của họ, thế nhưng xem dường điều đã xảy ra là vẫn có thể, vào những dịp hiếm hoi, cho một Sapiens và một Neanderthal để sản sinh một đứa con có khả năng sinh sản tiếp nối. Như thế, những quần thể đã không hợp nhất, nhưng một ít gene Neanderthal may mắn đã đi nhờ, không vé, trên đoàn tàu tốc hành của Sapiens. Điều phá rối sự yên lòng – và có lẽ ly kỳ – để nghĩ rằng những Sapiens chúng ta đã một thời, có thể ăn nằm, có quan hệ tình dục, với một con vật thuộc một loài người khác biệt, và cùng nhau sinh sản con cái.

Một đứa trẻ người Neanderthal, được tái tạo theo phỏng đoán. Những bằng chứng di truyền gợi ý rằng ít nhất một số người Neanderthal có thể đã có da trắng và tóc vàng.

Nhưng nếu loài người Neanderthal, Denisovans và những loài người khác không hợp nhất với loài người Sapiens, tại sao họ đã biến mất? Một điều có thể xảy ra là Homo Sapiens đã đẩy họ đến tuyệt chủng. Hãy tưởng tượng một nhóm Sapiens đến một thung lũng Balkan, nơi người Neanderthal đã sống hàng trăm nghìn năm. Những người mới đến bắt đầu đi săn hươu nai và hái lượm những loại hạt và những loại quả mọng nước berries vốn đã là thức ăn truyền thống chính yếu của người Neanderthal. Sapiens là những thợ săn và hái lượm thành thạo hơn – nhờ kỹ thuật khéo hơn và kỹ năng xã hội tốt hơn – vì thế họ nhân lên đông đảo và toả rộng. Những người Neanderthal kém tháo vát thấy ngày càng khó khăn để kiếm thức ăn nuôi sống bản thân họ. Dân số của họ giảm đi và họ từ từ chết sạch, ngoại trừ một hoặc hai thành viên đã nhập vào với những láng giềng mới, nhóm người Sapiens, của họ.

Một điều khác có thể xảy ra là sự cạnh tranh những nguồn thực phẩm hay nguyên liệu đã bùng lên thành bạo động và giết hại tuyệt chủng. Khoan dung không phải là một nhãn hiệu của loài Sapiens. Trong những thời hiện đại, chỉ một sự khác biệt nhỏ về màu da, phương ngữ hay tôn giáo đã đủ để nhắc nhở một nhóm Sapiens về sự tiêu diệt một nhóm khác. Có thể nào những Sapiens thời cổ đã là khoan dung hơn với một loài người hoàn toàn khác biệt? Điều cũng rất có thể là khi loài Sapiens gặp loài Neanderthals, kết quả đã là chiến dịch đầu tiên và quan trọng nhất trong lịch sử về thảm sát tập thể những nhóm khác đàn khác giống, ngay nay chúng ta gọi tên là “giết sạch giòng lạ rửa máu bẩn” [14]

Dù nó đã xảy ra cách nào đi nữa, loài Neanderthal (và những loài người khác) đặt ra cho một lịch sử một trong những câu hỏi bắt đầu bằng chữ “nếu” thật lớn. Hãy tưởng tượng mọi sự việc đã xảy ra thế nào nếu loài Neanderthal hay Denisovans đã thành ra cùng sống sót với loài Homo Sapiens. Những loại văn hóa, xã hội và cấu trúc chính trị nào, nếu thế, đã có thể đã xuất hiện trong một thế giới mà nhiều những loài người khác biệt cùng tồn tại? Lấy thí dụ, những tín ngưỡng tôn giáo đã lần lượt khai mở như thế nào? sách Sáng Thế Kitô có đã cũng tuyên bố rằng người Neanderthal từ Adam và Eve sinh ra? Jesus có đã cũng chết cho “tội lỗi” của giống Denisovans, và Qur’an có đã cũng xếp chỗ trên thiên đàng cho tất cả mọi người ngay thẳng, dù họ thuộc bất cứ loài người nào? Những Neanderthal có đã cũng có thể phục vụ trong quân đội Rome, hoặc trong bộ máy quan liêu vươn rộng của đế quốc Tàu? Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ có đã cũng nêu cao như một chân lý hiển nhiên rằng tất cả những thành viên của những giống Homo đều được sinh ra bình đẳng? Karl Marx có đã cũng sẽ kêu gọi giới vô sản của tất cả mọi loài người khác biệt hãy cùng đoàn kết lại không?

Hơn 10.000 năm qua, Homo Sapiens đã phát triển quá quen thuộc như thế với tư cách là loài người duy nhất, khiến là điều khó khăn cho chúng ta để mường tượng trong đầu được một bất kỳ có thể xảy ra nào khác. Thiếu hụt về những anh chị em của chúng ta khiến là điều dễ dàng hơn để tưởng tượng rằng chúng ta là khuôn mẫu thu nhỏ tuyệt đỉnh của sự sáng tạo, và rằng một vực thẳm ngăn cách chúng ta với phần còn lại của vương quốc động vật. Khi Charles Darwin đã chỉ ra rằng Homo Sapiens chỉ là một loài khác của những động vật, người ta đã hết sức giận dữ tự cho rằng mình bị xúc phạm. Ngay cả đến ngày nay, nhiều người vẫn không chịu tin, vẫn phủ nhận sự kiện đó. Nếu như loài Neanderthal đã sống sót, chúng ta có sẽ vẫn tưởng tượng mình tách biệt là một sinh vật đứng ngoài tất cả? Có lẽ đây đích xác là tại sao tổ tiên chúng ta đã xóa sạch giống người Neanderthal. Họ đã quá giống chúng ta để có thể làm ngơ, nhưng cũng quá khác biệt để có thể khoan nhượng.

Cho dù giống người Sapiens phải gánh trách nhiệm hay không, họ đã đến một địa điểm mới hơn, không muộn hơn so với sự tuyệt chủng của cư dân bản địa. Những gì cuối cùng còn lại của giống Homo soloensis tính năm tháng được khoảng 50.000 năm trước đây. Giống Homo denisova biến mất không lâu sau đó. Giống Neanderthal đã ra đi khoảng 30.000 năm trước đây. Những người lùn cuối cùng đã biến mất khỏi đảo Flores khoảng 12.000 năm trước đây. Họ bỏ lại đằng sau một số xương, những dụng cụ bằng đá, một ít gene trong DNA của chúng ta, và rất nhiều câu hỏi chưa được trả lời. Họ cũng để lại phía sau chúng ta, Homo Sapiens, loài người cuối cùng.

Bí mật của sự thành công của loài Sapiens là gì? Chúng ta đã xoay sở thế nào để định cư rất nhanh chóng như thế, trong nhiều môi trường sống xa cách và những sinh thái khác biệt? Chúng ta đã đẩy tất cả những loài người khác mất tuyệt vào quên lãng như thế nào? Tại sao ngay cả những người loài Neanderthal vạm vỡ khoẻ mạnh, óc lớn, chịu lạnh giỏi, lại không thể tồn tại được trước sự tấn công của chúng ta? những tranh luận vẫn tiếp tục giằng co. Trả lời có lẽ có thể xảy ra nhất chính là điều làm những tranh luận thành có thể có được: Homo Sapiens đã chinh phục thế giới, trên tất cả, nhờ vào ngôn ngữ khác thường, có một không hai, của nó.

2

Cây của sự Hiểu biết

Trong chương trước chúng ta đã thấy rằng dẫu những người Sapiens đã ngụ cư ở Đông Phi từ 150.000 năm trước, họ bắt đầu lấn tràn ra phần còn lại của hành tinh Quả đất, và đẩy những loài người khác vào tuyệt chủng, chỉ khoảng 70.000 năm trước đây. Trong những nghìn năm giữa của khoảng thời gian đó, dẫu những người Sapiens sơ khai này trông giống đúng như chúng ta và bộ óc của họ cũng đã lớn như của chúng ta, họ đã không được hưởng bất kỳ lợi thế đáng ghi dấu nào so với những loài người khác, đã không tạo được bất kỳ những đồ dùng tinh xảo cụ thể nào, và không thành tựu được bất luận một kỳ công đặc biệt nào khác.

Thực sự, trong cuộc gặp gỡ đầu tiên được ghi lại giữa người Sapiens và người Neanderthal, người Neanderthal đã thắng. Khoảng 100.000 năm trước đây, một số nhóm người Sapiens di cư về phía bắc tới vùng Cận Đông, đó là lãnh thổ của người Neanderthal, nhưng họ đã thất bại, không giữ được một địa bàn chắc chắn. Đó có thể là do những người bản địa khó chịu, một khí hậu khắc nghiệt, hoặc không quen thuộc với những ký sinh trùng ở địa phương. Dù lý do là gì, cuối cùng những Sapiens đã rút lui, để lại những người Neanderthal như là chủ nhân của vùng Trung Đông.

Chứng tích kém cỏi này đã dẫn những học giả đến suy đoán rằng cấu trúc bên trong những bộ óc của những Sapiens này có lẽ đã khác với của chúng ta. Họ trông giống như chúng ta, nhưng khả năng nhận thức của họ – học tập, ghi nhớ, truyền đạt thông tin – đã hạn hẹp hơn nhiều. Một Sapiens sơ khai như thế, nếu dạy tiếng Anh cho anh, thuyết phục anh về “chân lý” của tín điều Kitô, hoặc làm cho anh hiểu được thuyết tiến hóa, đều có lẽ sẽ là những toan tính vô vọng. Ngược lại, chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn để học ngôn ngữ của anh ta và hiểu được cách suy nghĩ của anh.

Nhưng sau đó, bắt đầu khoảng 70.000 năm trước, Homo Sapiens đã khởi đầu làm những sự việc rất đặc biệt. Khoảng thời gian đó, những nhóm Sapiens đã rời châu Phi lần thứ hai. Lần này, họ đã đẩy loài Neanderthal và tất cả những loài khác của con người, không chỉ sạch khỏi vùng Trung Đông, nhưng khỏi tất cả mặt đất. Trong một khoảng thời gian ghi nhận là rất ngắn, Sapiens đến được châu Âu và Đông Á. Khoảng 45.000 năm trước đây, bằng cách nào đó họ đã vượt biển khơi và đặt chân lên Australia – một lục địa, trước đó vẫn chưa có con người. Thời gian, từ khoảng 70.000 năm trước cho đến khoảng 30.000 năm trước, đã chứng kiến ​​sự phát minh thuyền, đèn dầu, cung bắn tên, và kim khâu (cần thiết để khâu quần áo ấm). Những vật thể đầu tiên, có thể tin tưởng để gọi được là mỹ thuật, có năm tháng từ thời kỳ này (xem tượng người-sư tử Stadel trên trang này), như cũng là bằng chứng rõ ràng đầu tiên về tôn giáo, thương mại và sự phân chia tầng lớp xã hội.

Hầu hết những nhà nghiên cứu tin rằng những thành tựu chưa từng có này đã là sản phẩm của một cuộc cách mạng trong những khả năng nhận thức của người Sapiens. Họ chủ trương rằng những người đã đẩy người Neanderthal vào tuyệt chủng, định cư ở Australia, và khắc tượng người-sư tử Stadel đã cũng thông minh, sáng tạo và nhạy cảm như chúng ta. Nếu chúng ta đã ngẫu nhiên gặp những nghệ sĩ của Hang Stadel [15], chúng ta có thể học ngôn ngữ của họ và họ học của chúng ta. Chúng ta có thể giải thích cho họ tất cả mọi thứ chúng ta biết – từ những Phiêu lưu của Alice trong Xứ Kỳ diệu, đến những nghịch lý của vật lý quantum – và họ có thể dạy chúng ta cái nhìn của họ về thế giới là như thế nào.

Sự xuất hiện của những cách suy nghĩ và truyền đạt thông tin mới, giữa 70.000 và 30.000 năm trước đây, tạo thành cuộc Cách mạng Nhận thức. Nguyên nhân của nó là gì? Chúng ta không biết chắc. Lý thuyết phổ thông nhất cho rằng những đột biến di truyền ngẫu nhiên đã thay đổi hệ thống kết cấu những nơrôn bên trong bộ óc của Sapiens, khiến họ có khả năng để suy nghĩ theo những cách chưa từng có và để truyền đạt thông tin bằng cách sử dụng một loại ngôn ngữ hoàn toàn mới. Chúng ta có thể gọi nó là sự đột biến Cây của Kiến thức. Tại sao nó lại xảy ra trong DNA Sapiens hơn là trong DNA của người Neanderthal? Đó đã là việc hoàn toàn ngẫu nhiên, đến chừng mức như chúng ta có thể nói được về nó. Nhưng điều là quan trọng hơn là hiểu được những hậu quả của sự đột biến Cây của Kiến thức thay vì những nguyên nhân của nó. Có gì đặc biệt về ngôn ngữ mới của Sapiens khiến nó đã đem cho chúng ta khả năng để chinh phục thế giới? [16]

Nó không phải là ngôn ngữ đầu tiên. Mỗi động vật đều có ngôn ngữ thuộc một loại nào đó. Ngay cả côn trùng, chẳng hạn như loài ong, kiến, đều biết làm thế nào để thông tin theo những cách tinh tế, con này cho con khác biết ở những chỗ nào có thức ăn. Cũng không phải là ngôn ngữ có thanh điệu [17] đầu tiên. Nhiều loài động vật, bao gồm tất cả những loài trong họ ape và những loài khỉ, có ngôn ngữ thanh điệu. Lấy thí dụ, loài khỉ có lông chỏm đầu màu xanh [18] sử dụng những tiếng gọi nhiều loại khác biệt để thông tin. Những nhà động vật học đã xác định được một tiếng kêu có nghĩa là, “Cẩn thận! Một con chim ưng!”; Một tiếng kêu hơi khác để báo động: “Cẩn thận! Một con sư tử!”. Khi những nhà nghiên cứu cho phát thanh một bản ghi âm tiếng gọi đầu tiên cho một nhóm khỉ này nghe, những con khỉ ngừng lại những gì chúng đang làm và ngước lên sợ hãi. Khi cùng nhóm này nghe đoạn ghi âm tiếng gọi thứ hai, báo động có sư tử, chúng nhanh biến trèo vụt lên cây. Sapiens có thể sản xuất nhiều âm thanh phân biệt rõ ràng hơn so với loài khỉ có lông chỏm đầu màu xanh, nhưng loài cá voi và loài voi có khả năng đáng phục không kém. Một con vẹt có thể nói bất cứ điều gì Albert Einstein có thể nói, cũng như bắt chước những âm thanh của chuông điện thoại, cửa đóng sầm và còi cứu cấp rền rĩ. Bất cứ ưu điểm gì mà Einstein đã có hơn một con vẹt, đó không phải là giọng nói. Như thế, điều gì khiến ngôn ngữ của chúng ta quá đặc biệt như thế?

Trả lời phổ biến nhất là ngôn ngữ của chúng ta thì mềm dẻo đến mức kinh ngạc. Chúng ta có thể kết nối một số giới hạn về âm thanh và dấu hiệu để tạo ra một số lượng vô hạn những câu nói, mỗi câu có một ý nghĩa khác biệt. Chúng ta do đó có thể hấp thụ, lưu trữ và truyền đạt một số lượng thông tin khổng lồ về thế giới xung quanh chúng ta. Một con khỉ lông chỏm đầu xanh có thể kêu những đồng bạn của mình, “Cẩn thận! Một con sư tử!”. Nhưng một con người hiện đại có thể nói với bạn bè của mình rằng sáng nay, gần khúc quành của dòng sông, cô nhìn thấy một con sư tử theo dõi một đàn bò rừng. Sau đó, cô có thể mô tả chính xác vị trí, gồm cả những lối khác nhau dẫn đến khu vực này. Với thông tin này, những thành viên trong đoàn của cô có thể chụm đầu họ lại với nhau và thảo luận về việc họ có nên tiến gần đến khúc sông đó hay không, để đuổi con sư tử đi và săn lấy bầy bò rừng.

Một thuyết thứ hai đồng ý rằng ngôn ngữ độc đáo của chúng ta đã tiến hoá như là một phương tiện để chia sẻ thông tin về thế giới. Nhưng thông tin quan trọng nhất vốn cần được truyền đạt là về con người, không phải về những con sư tử và bầy bò rừng. Ngôn ngữ của chúng ta đã phát triển như là một cách để tán ngẫu tầm phào, hay nói chuyện ngồi lê đôi mách, đồn đãi xấu về nhau. Theo lý thuyết này, Homo Sapiens chủ yếu là một động vật xã hội. Sự hợp tác xã hội là chìa khóa của chúng ta cho sự sống còn và tái sinh sản. Điều là không đủ cho những cá nhân nam và nữ để biết hành tung của những con sư tử và bò rừng. Điều là quan trọng hơn nhiều đối với họ là để biết trong đoàn của họ có ai ghét ai, ai ngủ với ai, ai là người trung thực, và ai là người gian lận.

Một bức tượng bằng ngà của một ‘người-nam-sư tử’ (hoặc ‘người-nữ-sư tử’) từ hang Stadel ở Germany (c.32,000 năm trước đây). Thân người, nhưng đầu sư tử. Đây là một trong những thí dụ đầu tiên không thể chối cãi về nghệ thuật, và có lẽ cả về tín ngưỡng, và về khả năng của não thức con người để tưởng tượng những sự vật việc vốn chúng không thực sự hiện hữu.

Lượng thông tin mà người ta phải có được và lưu trữ để theo dõi những mối quan hệ luôn thay đổi của một vài tá gồm những cá nhân là đáng kinh ngạc. (Trong một đoàn gồm 50 cá nhân, có 1.225 những quan hệ một-với-một, và vô số những kết hợp xã hội phức tạp hơn, không đếm nổi). Tất cả những loài trong họ ape đều cho thấy một quan tâm bền bỉ với thông tin xã hội thuộc loại giống như vậy, nhưng chúng gặp khó khăn trong việc nói chuyện ngồi lê đôi mách, đồn đãi xấu về nhau một cách hiệu quả. Neanderthal và Homo Sapiens sơ khai có lẽ cũng đã có một thời gặp khó khăn trong việc nói xấu sau lưng nhau – một khả năng thâm hiểm nhiều ác độc, vốn trong thực tế thì cần thiết cho sự cộng tác với số lượng lớn [19]. Những kỹ năng ngôn ngữ mới mà Sapiens hiện đại đã có được khoảng bảy mươi nghìn năm trước đây, đã cho phép họ buôn chuyện ngồi lê đôi mách hàng giờ mới dứt. Thông tin đáng tin cậy về những người có thể tin cậy được có nghĩa là bầy đàn nhỏ có thể mở rộng thành những bầy đàn lớn hơn, và Sapiens có thể phát triển những loại hợp tác chặt chẽ hơn và tinh vi hơn.[20]

Lý thuyết về tán ngẫu tầm phào, hay nói chuyện ngồi lê đôi mách, đồn đãi xấu về nhau nghe có vẻ giống như một đùa bỡn, nhưng có số rất lớn những nghiên cứu hỗ trợ nó. Thậm chí ngày nay phần lớn những thông tin liên lạc của con người – dù dưới dạng email, điện thoại hay cột báo trang bình luận – là sự đồn đãi, nói chuyện ngồi lê đôi mách. Điều đi đến với chúng ta hết sức tự nhiên rằng có vẻ ngôn ngữ của chúng ta phát triển như nếu đã chỉ chính cho đúng mục đích này. Có phải bạn nghĩ rằng những giáo sư lịch sử bàn tán về những lý do của chiến tranh thế giới khi họ gặp nhau trong bữa ăn trưa, hoặc những nhà vật lý nghiên cứu nhân atom tại những hội nghị khoa học, trong giờ tạm nghỉ, uống cà phê và nói về những quark? Đôi khi. Nhưng thường xuyên hơn, họ đồn đãi về vị giáo sư là người bắt quả tang chồng mình ngoại tình, hay cuộc cãi vã giữa giáo sư trưởng ban và giáo sư khoa trưởng, hoặc những tin đồn rằng một đồng nghiệp đã dùng tiền quỹ nghiên cứu của mình để mua một chiếc Lexus. Chuyện ngồi lê đôi mách thường tập trung vào những việc làm sai trái. Những người buôn chuyện đồn đãi ban đầu là giới báo chí, những nhà báo thông báo cho xã hội về việc này người nọ, và như thế bảo vệ nó khỏi những kẻ gian dối và những kẻ ăn bám.

Có thể xảy ra với xác xuất cao nhất, cả hai thuyết tin đồn đãi nói chuyện ngồi lê đôi mách và thuyết có-một-sư tử-gần-bờ-sông đều là thuận lý. Tuy nhiên, tính năng thực sự độc đáo của ngôn ngữ chúng ta không phải là khả năng của nó để truyền tải thông tin về những con người và những con sư tử. Đúng hơn, đó là khả năng để truyền tải thông tin về những sự vật việc hoàn toàn không hiện hữu. Theo như chúng ta biết, chỉ Sapiens mới có thể nói chuyện về toàn bộ những loại thực thể mà họ chưa bao giờ nhìn thấy, chạm vào hay ngửi mùi.

Những truyền thuyết, thần thoại, gót và tôn giáo đã xuất hiện lần đầu tiên với cuộc Cách mạng Nhận thức. Nhiều loài động vật và loài người trước đây có thể nói, “Cẩn thận! Một con sư tử!” Nhờ cuộc Cách mạng Nhận thức, Homo Sapiens có được khả năng để nói, “Sư tử là thần tinh bảo hộ cho bộ lạc của chúng ta”. Khả năng này để nói về những chuyện bịa đặt chế biến giả dối [21] là tính năng độc đáo nhất của ngôn ngữ của loài Sapiens.

Đó là tương đối dễ dàng để đồng ý rằng chỉ Homo Sapiens mới có thể nói về những điều vốn không thực sự hiện hữu, và tin vào sáu điều không thể nào có thể có được trước bữa ăn sáng [22] . Bạn không bao giờ có thể thuyết phục được một con khỉ để nó đem cho bạn một quả chuối, bằng cách hứa hẹn nó sẽ có vô hạn những quả chuối sau khi chết trong thiên đường của loài khỉ. Nhưng tại sao nó quan trọng? Sau tất cả, chuyện bịa đặt, pha chế giả tạo có thể gây hiểu lầm hoặc làm mất tập trung chú ý, rất nguy hiểm. Những người đi vào rừng tìm những nàng tiên và những con ngựa một sừng hẳn đã dường như có ít cơ hội sống sót hơn những người đi tìm nấm và nai. Và nếu bạn bỏ ra hàng giờ để cầu nguyện thần linh giám hộ không hiện hữu, không phải là bạn lãng phí thời gian quý báu hay sao, thời gian tốt hơn nên dành vào việc tìm kiếm thức ăn, đánh nhau và làm tình?

Nhưng tin tưởng vào những chuyện bịa đặt chế biến giả dối đã giúp chúng ta không chỉ đơn thuần là để tưởng tượng ra những sự vật việc, nhưng để làm như vậy cùng chung với nhau. Chúng ta có thể dệt những huyền thoại phổ biến, như câu chuyện sáng thế của kinh thánh, những huyền thoại Dreamtime của những thổ dân Australia [23], và những huyền thoại quốc gia của những nhà nước hiện đại. Những huyền thoại như vậy cho Sapiens khả năng chưa từng có, để hợp tác linh hoạt với nhau trong số lượng khổng lồ. Kiến và ong, với số lượng lớn, cũng có thể làm việc cùng nhau, nhưng chúng làm như vậy một cách rất khô cứng và chỉ với những người thân. Loài chó sói và loài chimpanzee hợp tác với nhau linh hoạt hơn nhiều nếu so với loài kiến, nhưng chúng có thể làm như vậy chỉ với một số lượng nhỏ của những cá nhân khác mà chúng có quen biết mật thiết. Sapiens có thể hợp tác trong những cách cực kỳ linh hoạt với vô số những người lạ. Đó là tại sao Sapiens thống trị thế giới, trong khi kiến ​​ăn thức ăn thừa của chúng ta, và chimpanzee bị chúng ta nhốt trong vườn thú và những phòng thí nghiệm nghiên cứu.

 

Truyền thuyết về công ty ô tô Peugeot

 

Những em họ chimpanzee của chúng ta thường sống trong những bầy nhỏ gồm vài tá những cá nhân. Chúng hình thành những tình bạn thân thiết, cùng đi săn và cùng chiến đấu kề cận nhau chống lại loài baboon, loài báo và những con chimpanzee đối địch. Cấu trúc xã hội của chúng có khuynh hướng phân đẳng cấp. Con vật đứng đầu, là con hầu như luôn luôn là con đực, được gọi là con trùm đực (“alpha male”). Những con đực và cái khác cho thấy sự tùng phục của chúng với con trùm đực của chúng bằng cách cúi thấp đầu trước con này, trong khi tạo những âm đục, ngắn, ủn ỉn như tiếng lợn kêu; và không phải là không giống như những con người “thần dân” cúi đầu quỳ lạy vạn tuế trước một ông vua. Con trùm đực cố gắng để duy trì sự hài hòa xã hội trong bầy đàn của nó. Khi có hai con cùng bầy đánh nhau, nó sẽ can thiệp và ngăn chặn bạo động. Ít rộng rãi hơn, nó có thể giữ độc quyền những thức ăn đặc biệt thèm muốn, và ngăn chặn những con đực cấp thấp hơn, không được giao phối với những con cái.

Khi hai con chimpanzee cùng nhảy vào tranh dành vị thế trùm đực, chúng thường làm như vậy bằng cách thành hình những liên minh rộng lớn của những con nhập phe ủng hộ, cả đực và cái, trong cùng bầy đàn. Ràng buộc chặt chẽ giữa những thành viên liên minh dựa trên tiếp xúc thân mật hàng ngày – ôm, sờ, hôn, chải lông tóc cho nhau và giúp đỡ qua lại với nhau. Cũng như những chính trị gia của loài người, vào những chiến dịch vận động tranh cử, những mùa bầu cử, đã đi quanh để bắt tay và hôn những em bé, vì vậy con thú muốn theo đuổi vị trí hàng đầu trong một nhóm chimpanzee đã dành nhiều thời gian để ôm, vỗ lưng và hôn những bé con chimpanzee. Con trùm đực thường giành được ngôi vị của mình không phải vì nó có thể chất mạnh mẽ hơn, nhưng vì nó đang dẫn đầu một liên minh lớn và ổn định. Những liên minh này đóng một vai trò trung tâm không chỉ trong những tranh giành công khai cho những vị trí alpha, nhưng trong hầu hết những hoạt động thường ngày. Thành viên của một liên minh dành nhiều thời gian với nhau, chia sẻ thức ăn và giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc khó khăn.

Có những giới hạn rõ ràng về kích thước của những nhóm có thể được thành hình và duy trì trong một cách như vậy. Ngõ hầu có thể hoạt động được, tất cả những thành viên của một nhóm phải biết nhau mật thiết. Hai con chimpanzee đã chưa từng bao giờ gặp nhau, chưa từng bao giờ đánh nhau, và chưa từng bao giờ tham gia vào việc chải chuốt cho nhau sẽ không biết liệu chúng có thể tin nhau được không, liệu sẽ đáng bõ công giúp đỡ nhau không, và con nào trong bọn sẽ đứng hàng cao hơn. Trong những điều kiện tự nhiên, một nhóm chimpanzee điển hình gồm khoảng 20-50 con thú. Khi số lượng chimpanzee trong một nhóm tăng lên, trật tự xã hội mất quân bằng, cuối cùng dẫn đến một rạn vỡ và sự thành hình một nhóm mới của một số con thú. Chỉ trong một số ít đếm được trên đầu ngón tay, những nhà động vật học đã quan sát được những trường hợp có những nhóm lớn hơn một trăm con. Những nhóm riêng biệt hiếm khi hợp tác, và có khuynh hướng tranh dành nhau về đất sống và thức ăn. Những nhà nghiên cứu đã ghi chép tài liệu về chiến tranh dai dẳng, hay “trường kỳ kháng chiến” giữa những nhóm, và ngay cả một trường hợp của hoạt động “diệt chủng”, trong đó một nhóm đã giết chết, một cách có hệ thống, gần hết những thành viên của một nhóm láng giềng. [24]

Những mô hình tương tự có thể đã chiếm ảnh hưởng ưu thắng trong đời sống xã hội của những con người ban đầu, gồm cả những người loài Homo Sapiens sơ khai. Con người, giống như chimpanzee, có bản năng xã hội vốn đã cho tổ tiên chúng ta khả năng để thành hình những quan hệ bằng hữu và những hệ thống đẳng cấp, và để săn bắt hoặc chiến đấu cùng với nhau. Tuy nhiên, giống như bản năng xã hội của chimpanzee, những bản năng này của con người này đã được chuyển biến thuận hợp chỉ cho những nhóm nhỏ gần gũi mật thiết. Khi nhóm đã phát triển quá lớn, trật tự xã hội của nó mất quân bằng và bầy đoàn bị rạn nứt, phân ly. Ngay cả nếu có một thung lũng màu mỡ đặc biệt nào đó có thể nuôi 500Sapiens sơ khai, không có cách nào khiến rất nhiều người lạ như thế có thể sống chung với nhau. Làm thế nào họ có thể đồng ý người nào sẽ là người lãnh đạo, người nào nên săn ở chỗ nào, hoặc ai sẽ nên ăn nằm với ai?

Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Nhận thức, sự ngồi lê đôi mách, truyền kháo đồn đãi đã giúp Homo Sapiens thành hình bầy đoàn lớn hơn và ổn định hơn. Nhưng ngay cả sự ngồi lê đôi mách, đồn đãi về nhau cũng có giới hạn của nó. Nghiên cứu xã hội học đã chỉ ra rằng kích thước tối đa ‘tự nhiên’ của một nhóm người được gắn bó bằng ngồi lê đôi mách đồn đãi là khoảng 150 cá nhân. Hầu hết mọi người có thể, hoặc không biết rõ lẫn nhau, hoặc sự ngồi lê đôi mách đồn đãi giữa đám họ không có hiệu quả, nếu có hơn 150 con người.

Ngay cả ngày nay, một đường ranh giới hạn trong những tổ chức nhân văn nằm đâu đó gần con số kỳ diệu này. Dưới đường ranh giới hạn này, những cộng đồng, những doanh nghiệp, những mạng lưới xã hội và những đơn vị quân đội có thể tự duy trì, chủ yếu dựa vào sự quen biết mật thiết và tung tin đồn đãi. Không đòi hỏi phải có những hàng ngũ hình thức, tước vị và sổ sách luật lệ để giữ trật tự [25]. Một trung đội gồm ba mươi binh sĩ, hoặc ngay cả một đại đội gồm một trăm binh lính có thể hoạt động tốt trên cơ sở của những quan hệ thân mật, với một tối thiểu về kỷ luật chính thức. Một trung sĩ có uy tín có thể trở thành “ông vua của cả đại đội” và hành xử với thẩm quyền ngay cả trên những sĩ quan uỷ nhiệm. Một kinh doanh gia đình nhỏ có thể tồn tại và phát triển mà không có một hội đồng quản trị, một giám đốc điều hành, hay một ban kế toán tài chính.

Nhưng một khi đường ranh giới 150 cá nhân bị vượt qua, mọi sự vật việc có thể không còn làm việc theo cách đó. Bạn không thể điều hành một sư đoàn với hàng ngàn binh sĩ cùng một cách như bạn điều hành một trung đội. Những doanh nghiệp gia đình thành công thường phải đối mặt với một khủng hoảng khi chúng phát triển thành lớn hơn và phải thuê thêm người làm. Nếu chúng không thể tái tạo bản thân chúng, chúng đi đến đổ vỡ.

Homo Sapiens đã xoay sở giải quyết thế nào để vượt qua đường ranh quan trọng này, cuối cùng đã thành lập những thành phố gồm hàng chục nghìn cư dân và những đế quốc thống trị hàng trăm triệu người? Bí mật có lẽ là sự xuất hiện của chuyện tưởng tượng bịa đặt. Một số lớn gồm những người xa lạ có thể hợp tác thành công bằng cách tin tưởng vào những huyền thoại chung.

Bất kỳ một sự hợp tác trên quy mô rộng lớn nào của con người – cho dù là một nhà nước hiện đại, một hội nhà thờ Trung cổ, một thành phố thời cổ, hoặc một bộ lạc sơ khai – đều bắt gốc rễ từ những huyền thoại phổ biến có chung vốn chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng tập thể của con người. Những hội Nhà thờ có gốc rễ trong những thần thoại tôn giáo phổ biến có chung. Hai người Catô, là những người chưa từng bao giờ biết nhau, vẫn có thể cùng nhập đoàn viễn chinh đi thánh chiến, hoặc góp tiền vào quỹ chung để xây dựng một nhà cứu tế, vì cả hai đều tin rằng Gót đã nhập thể trong xương thịt con người và đã để cho Người đó chịu đóng đinh chết trên giá gỗ chữ thập, để chuộc “tội” cho “chúng ta”. Những nhà nước đã có gốc rễ từ những huyền thoại chung của quốc gia. Hai người Serb đã chưa bao giờ gặp nhau, nhưng người này có thể liều mạng sống của mình để cứu người kia, vì cả hai đều tin vào sự hiện hữu của quốc gia Serbia, tổ quốc Serbia, và lá cờ Serbia. Hệ thống tư pháp đã bắt nguồn từ huyền thoại pháp luật phổ biến. Hai luật sư, những người đã chưa bao giờ từng gặp nhau, vẫn có thể kết hợp những nỗ lực để bảo vệ một người lạ hoàn toàn, vì họ đều tin vào sự hiện hữu của pháp luật, công lý, nhân quyền – và vào tiền lệ phí trả cho dịch vụ của họ.

Thế nhưng, không một nào trong số những điều này hiện hữu ở ngoài những câu chuyện mà người ta tạo dựng lên và kể cho nhau nghe. Không có những gót trong vũ trụ, không có những nhà nước, không có tiền bạc, không có nhân quyền, không có luật pháp, và không có công lý bên ngoài sự tưởng tượng phổ thông có chung của loài người.

Mọi người dễ dàng hiểu rằng những người ‘nguyên thủy’ gắn chặt trật tự xã hội của họ bằng sự tin tưởng vào những ma quỷ và những hồn thiêng, và tụ tập mỗi khi trăng tròn để cùng nhảy múa quanh ngọn lửa trại đốt ngoài trời. Điều chúng ta không cảm nhận được là chính những tổ chức hội đoàn tôn giáo hay xã hội hiện đại của chúng ta thực hiện những vai trò của chúng cũng đích xác trên cùng một cơ sở. Lấy thế giới của những tập đoàn kinh doanh làm thí dụ. Những doanh nhân và luật sư hiện đại, trên thực tế, là những phù thủy uy quyền. Sự khác biệt chính, giữa họ và những thày mo bộ lạc, là những luật sư hiện đại kể những câu chuyện tưởng tượng lạ lùng hơn nhiều. Truyền thuyết về Peugeot có thể cho chúng ta một thí dụ tốt.

Một biểu tượng mà có phần nào giống như người-sư tử Stadel xuất hiện ngày hôm nay trên những xe ô tô, xe vận tải, xe gắn máy từ Paris đến Sydney. Đó là vật trang trí trên đầu mũi xe để làm cho thêm đẹp những chiếc xe do Peugeot sản xuất, một trong những hãng xe ô tô lâu đời nhất và lớn nhất của châu Âu. Peugeot đã bắt đầu như một doanh nghiệp gia đình nhỏ ở làng Valentigney, cách Hang Stadel chỉ 300 km. Ngày nay công ty thu dụng khoảng 200.000 người trên toàn thế giới, hầu hết trong số họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Những người xa lạ này hợp tác hết sức hiệu quả khiến năm 2008 Peugeot đã sản xuất hơn 1,5 triệu xe ô tô, tiền lãi thu nhập khoảng 55 tỉ euro.

Trong ý hướng nào chúng ta có thể nói rằng Peugeot SA (tên chính thức của công ty) hiện hữu? Có rất nhiều xe Peugeot, nhưng rõ ràng chúng không phải là công ty. Ngay cả nếu mọi xe Peugeot trên thế giới đã nhất loạt thành rác tạp vô dụng phải vứt bỏ, và đem bán như đồ đồng nát, Peugeot SA [26] sẽ không biến mất. Nó sẽ tiếp tục sản xuất những xe mới và phát hành báo cáo tổng kết hàng năm của công ty. Công ty sở hữu những xưởng máy, những máy móc và những phòng trưng bày bán xe, và thuê dùng những thợ máy, kế toán và thư ký, nhưng tất cả những người, sự vật việc này gộp lại với nhau không bao gồm Peugeot SA. Giả thử, một thảm họa có thể xảy ra, làm chết tất cả, không chừa lại một người nào trong những nhân viên của Peugeot, và tiếp tục huỷ hoại tất cả những hệ thống dây chuyền lắp ráp và những văn phòng điều hành của nó. Dẫu thế sau đó, công ty có thể vay tiền, thuê nhân viên mới, dựng những nhà máy mới và mua máy móc mới. Peugeot có những nhà quản lý và những người giữ cổ phần, nhưng không nhóm nào của họ tạo thành công ty. Tất cả những nhà quản lý có thể cho nghỉ việc, và tất cả những cổ phần đem bán sạch, nhưng bản thân công ty sẽ vẫn còn nguyên vẹn.

Sư tử Peugeot

Nó không có nghĩa rằng công ty Peugeot SA thì bất khả xâm phạm, hoặc bất tử. Nếu một quan toà đã được ủy thác việc giải thể công ty, những nhà máy của nó sẽ vẫn còn nguyên, và những người làm công, những nhân viên kế toán, quản lý và những người có cổ phần của nó, đều vẫn tiếp tục sống – nhưng Peugeot SA sẽ ngay lập tức biến mất. Trong vắn tắt, Peugeot SA dường như không có kết nối thiết yếu nào với thế giới vật chất. Có phải nó thực sự hiện hữu?

Peugeot là một bịa đặt của óc tưởng tượng tập thể của chúng ta. Những luật sư gọi đây là một “bịa đặt pháp luật” [27]. Không thể lấy tay chỉ vào nó; nó không phải là một đối tượng vật lý. Nhưng nó hiện hữu như một thực thể pháp lý. Cũng giống như bạn hay tôi, nó bị pháp luật của những đất nước mà nó hoạt động ràng buộc. Nó có thể mở một trương mục nhà băng và sở hữu nhà đất. Nó đóng tiền thuế, và nó có thể bị thưa kiện, và ngay cả bị truy tố biệt lập với bất kỳ một người nào sở hữu hoặc làm việc cho nó.

Peugeot thuộc về một thể loại đặc biệt của những bịa đặt pháp luật, gọi là “những công ty trách nhiệm hữu hạn”. Ý tưởng đằng sau những công ty như thế là một trong những phát minh tài tình nhất của loài người. Homo Sapiens trong không biết bao nhiêu hàng nghìn năm mà kể, đã sống không có chúng. Trong hầu hết thời gian có lịch sử được ghi chép, tài sản chỉ có thể được sở hữu bởi những con người bằng xương thịt, loại đứng trên hai chân và có bộ óc lớn. Trong thế kỷ XIII ở nước Pháp, nếu Jean đã dựng lập một xưởng máy sản xuất toa xe goòng, bản thân ông là công việc kinh doanh. Nếu một toa xe ông đã làm ra bị hỏng, chỉ sau khi mua một tuần, người mua bất mãn đã kiện cá nhân Jean. Nếu Jean đã vay 1.000 đồng tiền vàng để thành lập xưởng máy của mình và công việc kinh doanh thất bại, ông sẽ phải trả nợ bằng cách bán tài sản riêng của mình – nhà của ông, con bò của ông, đất đai của ông. Ông ngay cả có thể đã phải “bán vợ đợ con” của mình vào thân phận nô lệ. Nếu ông không thể trang trải những khoản nợ, ông ta có thể bị nhà nước tống vào tù, hoặc làm nô lệ cho những chủ nợ của mình. Ông hoàn toàn chịu trách nhiệm, không giới hạn, về tất cả những trách nhiệm nảy sinh từ xưởng máy của ông.

Nếu bạn đã trở lại sống vào thời đó, bạn có lẽ sẽ nghĩ đi nghĩ lại trước khi bạn mở một doanh nghiệp của riêng bạn. Và quả thực tình trạng pháp luật này không khuyến khích sự đầu tư kinh doanh. Người ta đã sợ để khởi đầu những doanh nghiệp mới và phải nhận những rủi ro về kinh tế. Hầu như khó mà dám liều lĩnh với cơ hội may rủi khiến cả gia đình họ cuối cùng bị táng gia bại sản.

Đây là tại sao người ta đã bắt đầu để cùng nhau tưởng tượng ra sự hiện hữu của những công ty có trách nhiệm hữu hạn. Những công ty như thế được độc lập về mặt pháp lý với những người là những cá nhân đã thiết lập chúng, hoặc đã đầu tư tiền vốn trong chúng, hay quản lý chúng. Trong vài thế kỷ vừa qua, những công ty loại giống như thế đã trở thành “người chơi bài” chính trong đấu trường kinh tế, và chúng ta đã trở nên quá quen thuộc với chúng, khiến chúng ta quên rằng chúng chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng của chúng ta. Ở US, thuật ngữ kỹ thuật cho một công ty trách nhiệm hữu hạn là một “tập đoàn” (corporation), vốn là trái khoáy buồn cười, vì thuật ngữ này có gốc từ ‘corpus’ (‘cơ thể’ trong tiếng Latin) – một điều chính yếu những tập đoàn này vốn không có. Mặc dù chúng không có “cơ thể” thực tại, hệ thống pháp luật của Mỹ đối xử với những tập đoàn, như những pháp nhân, như thể chúng là những con người bằng xương bằng thịt.

Trở lại năm 1896, hệ thống pháp luật Pháp đã làm như vậy, khi Armand Peugeot, người đã thừa hưởng từ cha mẹ mình một xưởng máy kim loại, vốn sản xuất những lò xo, cưa và xe đạp, đã quyết định đi vào kỹ nghệ làm ô tô. Đi đến mục đích đó, ông thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn. Ông lấy tên mình đặt cho công ty, nhưng nó thì độc lập với ông. Nếu một trong những chiếc ô tô bị hỏng máy, người mua có thể kiện Peugeot, nhưng không kiện được Armand Peugeot. Nếu công ty đã vay hàng triệu franc và sau đó bị sụp đổ, vỡ nợ. Armand Peugeot không nợ những chủ nợ một đồng franc nào. Khoản tiền đã vay, sau cùng tất cả, đã được trao cho Peugeot, công ty, không phải cho Armand Peugeot, người Homo Sapiens. Armand Peugeot đã chết năm 1915. Peugeot, công ty, vẫn còn sống và “khoẻ mạnh”.

Armand Peugeot, con người, đã tạo dựng Peugeot, công ty, đích xác như thế nào? Trong cùng một cách rất giống những nhà chăn chiên và những nhà phù thủy đã tạo dựng những gót và những quỉ thần, trong suốt dòng lịch sử loài người; và trong cách đó, hàng ngàn những ông “cha sở” ở nước Pháp vẫn đã tạo ra cơ thể của Christ mỗi Chủ Nhật trong những nhà thờ giáo xứ. Tất cả đều xoay quanh những câu chuyện kể, và thuyết phục người ta để họ tin vào chúng. Trong trường hợp của những ông “cha sở” ở Pháp, câu chuyện quyết định chủ yếu là đời sống và cái chết của Christ, theo như lời kể của Hội Nhà thờ Catô. Theo câu chuyện này, nếu một vị chăn chiên Catô, trong lễ phục thiêng liêng của ông, trịnh trọng nói những lời đúng ở thời điểm đúng, bánh và rượu trần tục trở thành máu và thịt của Gót. Nhà chăn chiên kêu lên “Hoc est Corpus meum!” (Tiếng Latinh có nghĩa: “Đây là cơ thể của ta!”). Và úm ba la – mẩu bánh bột mì biến thành thịt của Christ. Sau khi thấy rằng vị chăn chiên đã khuôn mẫu và cần mẫn tuân hành tất cả những thủ tục, hàng triệu người Catô mộ đạo nước Pháp đã cư xử như thể Gót thực sự hiện hữu trong bánh và rượu linh thiêng.

Trong trường hợp của Peugeot SA, câu chuyện quyết định chủ yếu đã là bộ luật dân sự của Pháp, như đã được quốc hội Pháp soạn ra. Theo những nhà lập pháp của Pháp, nếu một luật sư có chứng nhận được hành nghề, tuân theo tất cả những “tập tục cúng bái như đã ấn định trong tôn giáo” tương ứng và những nghi thức, đã viết tất cả những bùa chú và thề nguyền đòi hỏi trên một mảnh giấy trang trí tuyệt đẹp, và ký tên đóng dấu gắn nhãn vào cuối tài liệu này, sau đó “úm ba la …. ra cái này” [28] – một công ty mới có quyền tự trị được thành lập. Năm 1896, khi Armand Peugeot muốn tạo ra công ty của ông, ông trả tiền một luật sư để làm hết tất cả những thủ tục thiêng liêng này. Một khi vị luật sư đã thực hiện đúng tất cả những nghi lễ và tuyên đọc tất cả những bùa chú và tuyên thệ cần thiết, hàng triệu người dân Pháp ngay thẳng đều xử sự như thể công ty Peugeot thực sự hiện hữu.

Kể những câu chuyện cho hiệu quả thì không dễ dàng. Khó khăn không nằm trong việc kể chuyện, nhưng trong việc thuyết phục những người khác tin nó. Phần lớn lịch sử xoay quanh câu hỏi này: làm thế nào để một người thuyết phục hàng triệu người tin vào những câu chuyện cụ thể về những gót, hoặc những quốc gia, hoặc những công ty trách nhiệm hữu hạn? Tuy nhiên, khi thành công, nó mang lại choSapiens sức mạnh hết sức lớn rộng đến không bờ bến, vì nó khiến được hàng triệu người xa lạ hợp tác và làm việc hướng tới những mục tiêu chung. Hãy thử cố gắng để tưởng tượng khó khăn hẳn đã phải đến thế nào để tạo ra những nhà nước, hoặc những hội nhà thờ, hoặc những hệ thống pháp lý, nếu chúng ta chỉ có thể nói về những điều thực sự hiện hữu, như sông núi, cây cối và sư tử.

Qua năm tháng, con người đã dệt một mạng lưới vô cùng phức tạp gồm những câu chuyện. Trong hệ thống này, những chuyện bịa đặt, pha chế giả tạo như Peugeot không chỉ hiện hữu, mà còn tích lũy sức mạnh hết sức lớn rộng. Những loại của những sự vật việc mà mọi người tạo ra qua mạng lưới này của những câu chuyện được biết trong giới học thuật là “những chuyện bịa đặt, pha chế giả tạo”, “những cấu trúc xã hội”, hoặc “những thực tại tưởng tượng”. Một thực tại tưởng tượng không phải là một nói dối. Tôi nói dối khi tôi nói rằng có một con sư tử gần con sông khi tôi biết rất rõ rằng không có sư tử nào ở đó. Không có gì đặc biệt về những lời nói dối. Loài khỉ có lông chỏm đầu xanh và loài chimpanzee có thể nói dối. Một con khỉ lông chỏm đầu xanh, lấy thí dụ, đã từng được quan sát, gọi “Hãy cẩn thận! Một con sư tử!” Khi không có sư tử nào ở xung quanh. Báo động này đã gây sợ hãi khiến một con khỉ đồng bọn vừa tìm thấy một quả chuối, hoảng sợ vội bỏ chạy để lại tất cả cho kẻ nói dối, con khỉ này thừa dịp thuận tiện, đã ăn cắp món quà quí giá cho riêng nó.

Không giống như nói dối, một thực tại tưởng tượng là một gì đó mà mọi người đều tin vào, và miễn là chừng nào tin tưởng cộng đồng này vẫn tiếp tục hiện hữu, thực tại tưởng tượng có sức mạnh tác động trong thế giới. Nhà điêu khắc của hang Stadel có thể đã chân thành tin vào sự hiện hữu của người-sư-tử như thần tinh bảo hộ. Một số những phù thủy là những kẻ lừa dối, nhưng hầu hết đều chân thành tin vào sự hiện hữu của những gót và những quỷ thần. Hầu hết những triệu phú thật sự tin vào sự hiện hữu của tiền bạc và những công ty trách nhiệm hữu hạn. Hầu hết những nhà hoạt động nhân quyền thật sự tin vào sự hiện hữu của những quyền con người. Không ai nói dối, năm 2011, khi Liên Hiệp Quốc yêu cầu chính phủ Libya tôn trọng những quyền con người của những công dân của nó, mặc dù Liên Hiệp Quốc, Libya và nhân quyền tất cả đều là những bịa đặt của óc tưởng tượng phong phú của chúng ta.

Kể từ cuộc Cách mạng Nhận thức, Sapiens như thế đã vẫn sống trong một thực tại kép. Một mặt, thực tại khách quan của những con sông, cây cối và loài sư tử; và mặt khác, thực tại tưởng tượng của những gót, những quốc gia và những tổ chức loại như những công ty trách nhiệm hữu hạn. Với thời gian trôi đi, thực tại tưởng tượng này đã trở nên ngày càng mạnh mẽ hơn, vì vậy mà ngày nay sự hiện hữu của những dòng sông, cây cối và những loài động vật như sư tử, đều tuỳ thuộc vào đặc ân tử tế của những thực thể tưởng tượng như những gót, những quốc gia và những tổ chức tập đoàn.

 

Vượt qua Genome

 

Khả năng để tạo một thực tại được tưởng tượng ra từ những lời nói đã khiến cho những số lượng lớn những người xa lạ với nhau có thể hợp tác được một cách hiệu quả. Nhưng nó cũng đã làm một gì đó hơn thế. Kể từ khi sự hợp tác trên quy mô lớn của con người được dựa trên những huyền thoại, cách thức mọi người hợp tác có thể được sửa đổi bằng sự thay đổi những huyền thoại – bằng cách kể những câu chuyện khác biệt. Dưới những trường hợp thuận hợp, những huyền thoại có thể thay đổi nhanh chóng. Năm 1789 dân chúng Pháp đã chuyển, gần như chỉ qua đêm, từ tin tưởng vào huyền thoại về những quyền thiêng liêng của nhà vua sang tin tưởng vào huyền thoại về chủ quyền của người dân. Hệ quả là, từ khi có cuộc Cách mạng Nhận thức, Homo Sapiens đã có khả năng xem xét và sửa đổi hành vi ứng xử của mình nhanh chóng trong thuận hợp với những nhu cầu thay đổi. Điều này mở ra một lối đi nhanh cho sự tiến hóa văn hóa, vượt qua những tắc nghẽn giao thông của sự tiến hóa di truyền sinh học. Tăng tốc độ lên trên lối đi nhanh này, Homo Sapiens sớm vượt xa tất cả những loài người và động vật khác trong khả năng của nó để hợp tác.

Hành vi ứng xử của những loài động vật xã hội khác được ấn định trong một mức độ lớn bởi những gene của chúng. DNA không phải là một nhà độc tài chuyên chế. Hành vi động vật cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố môi trường và những thói quen ứng xử khác thường cá nhân. Tuy nhiên, trong một môi trường nhất định, những động vật cùng loài sẽ có khuynh hướng cư xử theo một cách tương tự. Những thay đổi đáng kể trong hành vi xã hội không thể xảy ra, trong tổng quát, nếu không có những đột biến di truyền. Lấy thí dụ, loài chimpanzee thông thường có khuynh hướng di truyền để sinh sống trong những nhóm phân đẳng cấp, đứng đầu là một con trùm đực. Thành viên của một loài có liên quan chặt chẽ với chimpanzee, loài bonobo, thường sống trong những nhóm bình đẳng hơn, chi phối bởi những liên minh “phái nữ”. Phái nữ chimpanzee thông thường không thể học những bài học từ những thân thuộc bonobo của chúng, và dàn dựng một cách mạng đòi bình đẳng nam nữ. Những con chimpanzee đực không thể tụ hợp trong một hội đồng lập hiến để bãi bỏ những văn phòng của con trùm đực và tuyên bố rằng từ giờ trở đi tất cả những con chimpanzee phải được đối xử bình đẳng. Những thay đổi lớn trong hành vi như vậy sẽ chỉ xảy ra nếu một gì đó đã thay đổi trong DNA của loài chimpanzee.

Do những lý do tương tự, con người sơ khai đã không khởi động bất kỳ một cách mạng nào. Đến chừng mức như chúng ta có thể nói, những thay đổi về cấu trúc mô hình xã hội, sự phát minh những kỹ thuật mới và sự định cư trong những môi trường sống xa lạ, đều là kết quả của những đột biến về gene di truyền và những áp lực từ môi trường sống nhiều hơn là từ những sáng kiến ​​văn hóa. Đây là lý do con người đã cần hàng trăm của hàng nghìn năm để thực hiện những bước này. Hai triệu năm trước đây, những đột biến di truyền dẫn đến sự xuất hiện của một loài người mới được gọi là Homo erectus. Sự xuất hiện của nó đã đi kèm với sự phát triển của một kỹ thuật làm đồ đá mới, ngày nay được công nhận như một đặc điểm xác định của loài này. Miễn là chừng nào Homo erectus đã không trải qua những biến đổi di truyền khác nữa, những dụng cụ bằng đá của nó vẫn gần như nhau – trong gần 2 triệu năm!

Ngược lại, kể từ khi có cuộc Cách mạng Nhận thức, Sapiens đã có thể thay đổi hành vi ứng xử của họ một cách nhanh chóng, truyền hành vi ứng xử mới cho những thế hệ tương lai mà không cần bất kỳ sự thay đổi di truyền hoặc môi trường nào. Như một thí dụ chính yếu, hãy xem xét sự xuất hiện vẫn tái diễn của giới thiểu số ưu tú tự chọn lựa không sinh con cái, chẳng hạn như giới chăn chiên Catô, những dòng tu đạo Phật, và những thái giám quan liêu trong triều đình Tàu. Sự hiện hữu của những nhóm ưu tú loại như thế, đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản nhất của sự chọn lọc tự nhiên, vì những thành viên có ảnh hưởng chi phối xã hội này đã tự nguyện từ bỏ sự sinh sản. Trong khi những con trùm đực chimpanzee dùng quyền lực của chúng để có quan hệ tình dục với càng nhiều những chimpanzee cái càng tốt – và do đó làm cha của một tỉ lệ lớn những con trẻ trong bầy – Con trùm đực Catô hoàn toàn kiềm chế, tránh khỏi quan hệ tình dục và chăm nuôi con trẻ. Kiêng cữ này không phát sinh từ những điều kiện môi trường đặc biệt khác thường như một sự khan hiếm trầm trọng thực phẩm, hoặc thiếu sự mong ước những bạn tình tương lai. Cũng không phải là kết quả của một vài đột biến gen kỳ lạ. Hội Nhà thờ Catô đã tồn tại trong nhiều thế kỷ, không phải bằng cách truyền đi một loại “gene sống độc thân” từ vị vua chiên này sang vị sau kế tiếp, nhưng bằng cách tiếp tục truyền đi những câu chuyện của kinh Thánh mới và của giáo luật Catô.

Nói cách khác, trong khi những mô hình hành vi ứng xử của con người sơ khai vẫn cố định trong hàng chục nghìn năm, Sapiens có thể biến đổi cấu trúc xã hội của họ, bản chất của sự quan hệ giữa những cá nhân của họ, hoạt động kinh tế của họ và một loạt những hành vi ứng xử khác trong vòng một hoặc hai chục năm. Hãy xem xét một một người dân của thành phố Berlin, sinh năm 1900 và sống già lão đến tuổi 100. Bà đã trải qua thời thơ ấu của mình trong Đế quốc Hohenzollern của hoàng đế Wilhelm II; những năm tuổi trưởng thành trong Cộng hòa Weimar, Reich đệ Tam Nazi, và Đông Germany Cộng sản; và bà đã chết như một công dân của nước Germany dân chủ và thống nhất. Bà đã xoay sở sinh sống để là một phần của năm hệ thống chính trị xã hội rất khác biệt, mặc dầu DNA của bà giữ nguyên, trước sau vẫn là một như nhau.

Đây đã là chìa khóa của sự thành công của Sapiens. Trong một trận ấu đả, lấy một chọi một, một Neanderthal có lẽ đã đánh bại một Sapiens. Nhưng trong một xung đột hàng trăm người, loài Neanderthal sẽ không có cơ may nào thắng nổi. Neanderthal có thể chia sẻ với nhau thông tin về nơi ở của những con sư tử, nhưng có lẽ họ không thể nói – và sửa đổi – những câu chuyện về những thần linh bộ lạc. Không có khả năng sáng tác truyện bịa đặt, người Neanderthal đã không có khả năng để hợp tác hiệu quả với số lượng lớn, họ cũng không có thể điều chỉnh hành vi xã hội của họ trước những thách thức thay đổi nhanh chóng.

Trong khi chúng ta không thể đi vào trong não thức Neanderthal để hiểu họ nghĩ như thế nào, chúng ta có bằng chứng gián tiếp về những giới hạn với nhận thức của họ, so với những đối thủ Sapiens của họ. Những nhà khảo cổ khai quật địa điểm Sapiens có tuổi 30.000 năm, ở trung tâm châu Âu, đôi khi thấy có những vỏ sò từ những bờ biển Mediterranean và Atlantic. Trong tất cả những gì đã có thể xảy ra, những vỏ sò này đã vào sâu bên trong đất liền thông qua đổi chác buôn bán đường xa, giữa những nhómSapiens khác biệt. Những địa điểm Neanderthal thiếu bất một bằng chứng nào về thương mại giống như thế. Mỗi nhóm sản xuất những dụng cụ riêng của mình từ những vật liệu địa phương [29].

Con trùm-đực của hội nhà thờ Kitô tự kiềm chế quan hệ tình dục và không chăm nuôi con cái, dẫu không có lý do di truyền hoặc sinh thái khiến ông ta làm như vậy.

Một thí dụ khác đến từ Nam Pacific. Những đoàn Sapiens sống trên đảo New Ireland, phía bắc của New Guinea, sử dụng một loại thuỷ tinh lấy từ núi lửa gọi là obsidian để sản xuất những dụng cụ đặc biệt cứng chắc và sắc bén. New Ireland, tuy nhiên, không có trầm tích tự nhiên của obsidian. Những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng obsidian họ đã sử dụng được mang đến từ những trầm tích trên New Britain, một hòn đảo cách xa 400 km. Một số cư dân ở những hòn đảo này đã phải là những người đi biển lành nghề, những người đã buôn bán trao đổi từ đảo này sang đảo khác trên những khoảng cách dài.[30]

Thương mại có thể dường như là một hoạt động rất thực tiễn, một hoạt động vốn không cần có cơ sở của sự bịa đặt của tưởng tượng. Tuy thế, thực tế là không có động vật nào khác ngoài Sapiens đã tham dự vào thương mại, và tất cả những mạng lưới thương mại Sapiens về chúng mà chúng ta có bằng chứng chi tiết đều đã được dựa trên những bịa đặt tưởng tượng. Thương mại không thể hiện hữu mà không có tin cậy, và là điều rất khó khăn để tin cậy người lạ. Mạng lưới thương mại trên toàn thế giới của ngày hôm nay là dựa trên sự tin tưởng của chúng ta vào những thực thể độc lập đến từ sự tưởng tượng bịa đặt, như đồng đôla, như Nhà băng Dự trữ Liên bang, và những nhãn hiệu cầu chứng mang những tôtem biểu tượng của những tập đoàn. Khi hai người xa lạ trong một xã hội bộ lạc muốn đổi chác buôn bán, thường thường họ sẽ thiết lập sự tin cậy bằng cách gọi đến một gót, tổ tiên thần thoại, hay tôtem động vật, vốn cả hai có chung.

Nếu những Sapiens cổ sơ tin vào những bịa đặt tưởng tượng đã đổi chác buôn bán những vỏ sò và thuỷ tinh obsidian, điều đứng vững được để lý luận rằng họ cũng có thể có thông tin thương mại, thế nên tạo ra một mạng lưới kiến ​​thức dày đặc hơn và rộng lớn hơn, so với của những gì đã phục vụ những người Neanderthal và những người cổ sơ khác.

Những thuật săn bắn cung cấp một minh họa khác của những khác biệt này. Neanderthal thường đi săn một mình, hoặc từng nhóm nhỏ. Sapiens, mặt khác, phát triển kỹ thuật dựa trên sự hợp tác giữa hàng chục những cá nhân đông đảo, và có lẽ ngay cả giữa những đoàn khác nhau. Một phương pháp đặc biệt hiệu quả là bao vây trọn một bầy thú, như bầy ngựa hoang, sau đó đuổi chúng vào một hẻm núi hẹp, nơi sẽ dễ dàng giết chúng hàng loạt. Nếu tất cả diễn ra theo đúng như toan tính, đoàn người có thể thu hoạch hàng tấn thịt, mỡ và da động vật, trong chỉ một buổi chiều của nỗ lực tập thể, và có thể tiêu thụ thức ăn phong phú này một trong hai cách: nấu ăn chung vui trong một tiệc potlatch lớn, hoặc phơi khô, hun khói, hay (ở vùng Artic) đông lạnh chúng, để ăn dần về sau. Những nhà khảo cổ đã tìm ra ra những địa điểm trong đó toàn thể những bầy thú đã bị giết lấy thịt hàng năm theo những cách như vậy. Ngay cả cũng có những địa điểm ở đó có những hàng rào và những chướng ngại, dựng lên để tạo những bẫy nhân tạo và những vùng đất giết thú.

Chúng ta có thể cho rằng người Neanderthal đã không hài lòng khi thấy những vùng đất săn bắn truyền thống của họ biến thành những lò giết thú do Sapiens kiểm soát. Tuy nhiên, nếu bạo lực nổ ra giữa hai loài, người Neanderthal không khá hơn nhiều so với những con ngựa hoang. Năm mươi Neanderthal hợp tác trong mô hình tĩnh theo truyền thống và đã không thể đọ sức với 500 Sapiens linh hoạt và sáng tạo. Và ngay cả nếu Sapiens bị thua vòng đầu tiên, họ có thể nhanh chóng phát minh những mưu chước mới cho phép họ sẽ thắng trong vòng sau.

 

Những gì đã xảy ra trong cuộc Cách mạng Nhận thức?

 

Khả năng mới  Những hậu quả rộng hơn 
Khả năng truyền tải những lượng thông tin lớn hơn về thế giới xung quanh Homo Sapiens Kế hoạch và thực hiện những động tác phức tạp, chẳng hạn như tránh sư tử và săn bò rừng
Khả năng truyền tải một lượng lớn thông tin xã hội lớn hơn về những quan hệ Sapiens Những nhóm gắn kết lớn hơn và chặt chẽ hơn, số lượng lên đến 150 cá nhân
Khả năng truyền tải thông tin về những sự vật việc không thực sự hiện hữu, chẳng hạn như thần linh của bộ lạc, những quốc gia, những công ty trách nhiệm hữu hạn, và nhân quyền. Hợp tác giữa những con số rất lớn của những người lạĐổi mới nhanh chóng của hành vi ứng xử xã hội

 

Lịch sử và Sinh học

 

Sự đa dạng bao la không bờ bến của những thực tại được tưởng tượng vốn Sapiens đã phát minh, và sự đa dạng kết quả của những mô hình hành vi ứng xử, là những thành phần chính của những gì chúng ta gọi là những “văn hóa”. Một khi đã xuất hiện những văn hóa, chúng không bao giờ ngừng thay đổi và phát triển, và những sửa đổi không thể ngăn cản được này là những gì chúng ta gọi là “lịch sử”.

Cuộc Cách mạng Nhận thức theo đó là điểm khi lịch sử đã tuyên bố sự độc lập của nó với sinh học. Cho đến khi có cuộc Cách mạng Nhận thức, những hoạt động của tất cả những loài người thuộc về lĩnh vực của sinh học, hoặc, nếu bạn thích thế, thời tiền sử (tôi có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ ‘thời tiền sử’, vì nó ngụ ý sai lầm rằng ngay cả trước khi xảy ra cuộc Cách mạng Nhận thức, con người đã ở trong một phạm trù của của riêng họ). Từ cuộc Cách mạng Nhận thức trở đi, những diễn kể lịch sử thay thế những lý thuyết sinh học như những phương tiện chính yếu của chúng ta trong việc giải thích sự phát triển củaHomo Sapiens. Để hiểu được sự nổi lên của đạo Kitô, hay Cách mạng Pháp, điều là không đủ để hiểu sự tác động hỗ tương giữa những gene, hormone và những cơ cấu sinh vật. Điều là cần thiết để đưa vào trong giải thích cũng cả sự tác động hỗ tương của những ý tưởng, những hình ảnh và những hoang tưởng.

Điều này không có nghĩa là Homo Sapiens và văn hóa của con người đã trở thành được miễn trừ khỏi những luật sinh học. Chúng ta vẫn là những con vật, và khả năng thể chất, tình cảm và nhận thức của chúng ta vẫn còn được định hình bởi DNA của chúng ta. Những xã hội của chúng ta được xây dựng từ những khối xây dựng giống như của những xã hội của người Neanderthal hoặc của chimpanzee, và chúng ta càng xem xét những khối xây dựng này – cảm giác, xúc động, quan hệ gia đình – càng thấy sự khác biệt giữa chúng ta và những loài (vượn, khỉ không đuôi) khác trong họ ape càng ít hơn.

Tuy nhiên, đó là một sai lầm để tìm kiếm những khác biệt ở mức độ cá nhân hoặc gia đình. Một với một, ngay cả mười với mười, chúng ta tương tự với những chimpanzee một cách hổ thẹn. Những khác biệt đáng kể bắt đầu xuất hiện chỉ khi chúng ta vượt qua ngưỡng cửa của 150 cá nhân, và khi chúng ta đạt đến 1,000-2,000 cá nhân, sự khác biệt thì kinh ngạc. Nếu bạn cố gắng tụm lại với nhau hàng ngàn chimpanzee vào công trường Tiananmen, đường Wall, toà nhà Vatican, hoặc trụ sở của Liên Hiệp Quốc, kết quả sẽ là cảnh tượng hỗn độn và náo động. Ngược lại, hàng ngàn những Sapiens thường xuyên tụ hợp ở những nơi như vậy. Cùng nhau, họ tạo ra những mô hình có trật tự – chẳng hạn như những mạng lưới thương mại, lễ bí tích thánh thể, hay những tổ chức chính trị – mà họ không bao giờ có thể tạo ra trong sự đơn độc. Sự khác biệt thực sự giữa chúng ta và những chimpanzee là chất keo huyền thoại vốn nó gắn kết vào cùng với nhau những số lớn gồm những cá nhân, gia đình và những nhóm. Chất keo này đã làm chúng ta thành những chủ nhân của sự sáng tạo.

Dĩ nhiên, chúng ta cũng cần những kỹ năng khác, chẳng hạn như khả năng để làm và dùng những dụng cụ. Thế nhưng, làm được dụng cụ thì ít có hệ quả quan trọng, trừ khi nó được ghép cặp với khả năng để hợp tác với nhiều những người khác. Làm thế nào mà bây giờ chúng ta có tên lửa liên lục địa với đầu đạn nguyên tử, trong khi 30.000 năm trước, chúng ta chỉ có những gậy xiên với đầu nhọn bằng đá mài? Về phương diện sinh lý, không có cải thiện đáng kể nào trong khả năng làm dụng cụ của chúng ta trong 30.000 năm qua. Albert Einstein đã kém khéo léo với đôi tay của mình hơn một người săn bắt hái lượm thời cổ. Tuy nhiên, khả năng của chúng ta để hợp tác với một số lượng lớn những người xa lạ đã cải thiện nổi bật đến mức gây ấn tượng sâu sắc. Những mũi nhọn bằng đá mài thời cổ đã được chế tạo, cặm cụi từng li từng tí, bởi một người duy nhất, là người đã dựa trên cố vấn và giúp đỡ của một vài người bạn thân thiết. Việc sản xuất một đầu đạn nguyên tử hiện đại đòi hỏi sự hợp tác của hàng triệu người lạ khắp nơi trên thế giới – từ những người thợ mỏ khai thác quặng uranium ở sâu dưới lòng đất, đến những nhà vật lý lý thuyết, những người viết những công thức toán học dài từ trang sách này sang trang khác, để mô tả những phản ứng của những sub-atom.

Để tóm tắt quan hệ giữa sinh học và lịch sử sau cuộc Cách mạng Nhận thức:

  1. Sinh học lập những tham số cơ bản cho những hành vi ứng xử và năng lực của người Homo Sapiens. Toàn bộ lịch sử diễn ra bên trong những giới hạn của diễn trường hoạt động sinh học này.
  1. Tuy nhiên, diễn trường hoạt động này thì vô cùng lớn rộng; cho phép Sapiens dấn mình vào một đa dạng đáng kinh ngạc gồm những sinh hoạt. Nhờ vào khả năng của họ để phát minh truyện bịa đặt tưởng tượng, Sapiens tạo ra những sinh hoạt ngày càng phức tạp hơn, trong đó mỗi thế hệ lại phát triển và trau chuốt chúng thêm hơn nữa.
  1. Hệ quả là ngõ hầu để hiểu được Sapiens cư xử thế nào, chúng ta phải mô tả sự tiến hoá lịch sử của những hành vi của họ. Nếu chỉ dẫn chứng đến những giới hạn sinh học của chúng ta, sẽ cũng giống như một ký giả truyền thanh thể thao; người đang trực tiếp tường thuật trận tranh giải vô địch bóng bầu dục thế giới, nhưng chỉ cung cấp cho những người nghe radio của mình một mô tả chi tiết về sân chơi bóng, chứ không phải là một giải thích về những cầu thủ, ai và ai đang làm những gì trên sân chơi lúc ấy.

Những trò chơi, những sinh hoạt nào đã tổ tiên thời Đồ Đá của chúng ta chơi, hoạt động trong diễn trường của lịch sử? Theo như chúng ta biết, những người khắc người-sư tử Stadel khoảng 30.000 năm trước đây đã có cùng những khả năng thể chất, tình cảm và trí tuệ như chúng ta đang có. Họ đã làm gì vào buổi sáng khi họ thức dậy? Họ đã ăn gì trong bữa ăn sáng – và bữa ăn trưa? Những tổ chức xã hội của họ đã giống như thế nào? Họ có quan hệ một vợ một chồng? và gia đình là đơn vị xã hội hay không? Có phải họ đã có những lễ hội, những luật lệ đạo đức, những cuộc thi thể thao và những nghi thức tôn giáo? Có phải họ đã có những chiến tranh? Chương tiếp theo hãy đảo mắt một cái nhìn vội vàng phía sau tấm màn của những thời đại, xem xét cuộc sống đã giống những gì trong hàng nghìn năm phân cách cuộc Cách mạng Nhận thức với cuộc Cách mạng Nông nghiệp.

——————————————————————————-

Những chú thích của tác giả sẽ giữ trong ngoặc vuông [ … ]

Những ghi chú khác với sai lầm nếu có là của người dịch.

[1] Gorilla: loài động vật lớn, không đuôi, đi và đứng thẳng, rất giống với con người; gorillas (họHominidae) là một trong bốn loài thuộc họ apes lớn, có họ hàng máu mủ gần gũi nhất (về DNA) với loài người – Những loài kia trong họ Hominidae là: chimpanzees, bonobos và orangutans. Những động vật thuộc họ ape lớn này khác với những con khỉ quen thuộc thường thấy, ở những điểm sau: chúng lớn hơn, có thể đi một quãng dài với lưng thẳng, không có đuôi, và bộ óc khá phát triển và lớn hơn loài khỉ (thuộc họ Cebidae).

Jellyfish: loài sứa biển, thường có dạng Nấm, với đầu như một tán lớn và đuôi rất dài. Một vài giống jellyfish có thể lớn hơn một con người, nhưng cũng có giống rất nhỏ, chỉ bằng đầu kim. Jellyfish đã sinh sống ên quả Đất hàng triệu năm, trước cả loài dinosaurs. Jellyfish không có óc, một vài loài có mắt, chúng chủ yếu tạo thành từ nước và protein.

Tôi sẽ dùng những tên người, tên đất, tên sinh vật, tên dụng cụ, theo tên khoa học, hay tên phổ thông quen thuộc trong tiếng Anh như chính tác giả trong bản tiếng Anh, và tránh không dùng những tên dịch mượn theo Tàu, thường nếu không ngớ ngẩn thì cũng lạc nghĩa.

[2] Species: loài; nhỏ hơn loài là giống (population=giống? và breed=giống lai?: A stock of animals or plants within a species having a distinctive appearance and typically having been developed by deliberate selection) – Thí dụ: loài chó, có những giống Phú quốc; giống Bulldog. Loài người, có những giống/dân da đen, dân da trắng, dân da vàng

Genus=chi (Homo); species =loài (Homo-habilis, Homo- erectus, Homo-sapiens)

Homo sapiens là một loài trong nhiều loài (species) của chi (genus) Homo, và ngày nay là loài duy nhất của chi này đã không bị tuyệt chủng

Tôi dùng bảng tên dịch sau đây:

Latin Anh Việt
Regio Domain Vực
Regnum Kingdom Giới
Divisio Division Ngành
Classis Class Lớp
Ordo Order Bộ
Familia Family Họ
Genus Genus Chi
Species Species Loài
Varietas Variety Thứ
Forma Form Dạng

[3] DNA pool hay gene pool: The collective genetic information contained within a population of sexually reproducing organisms.

[4] the great apes: Như nói trên, ape vẫn quen dịch là họ Vượn Người – Apes (Hominoidea) – Có hai nhánh chính: (1) Hylobatidae hay Lesser apes (Vượn Người Bé). Hylobatidae gồm 4 chi và 16 loài vượn gibbon, gồm lar gibbon, và siamang. (2) Hominids hay Great apes (Vượn Người Lớn). Hominidae gồm: orangutans, gorillas, chimpanzees, và humans.

[5] Trait – ở đây là a genetically determined characteristic.

[6] Primate: bộ linh trưởng, thuộc lớp mamalia (có vú, nuôi con bằng sữa)

[7] [Ann Gibbons, ‘Food for Thought: Did the First Cooked Meals Help Fuel the Dramatic Evolutionary Expansion of the Human Brain?’, Science 316:5831 (2007), 1,558–60.]

[8] Interbreeding Theory

[9] Replacement Theory

[10] A genome is an organism’s complete set of genetic instructions. Each genome contains all of the information needed to build that organism and allow it to grow and develop. In humans, a copy of the entire genome—more than 3 billion DNA base pairs—is contained in all cells that have a nucleus.

[11] Gene mapping: identify the locations of different genes on specific chromosomes

[12] In 2010, a genetic study of a little finger bone found in Denisova cave in the Russian Altai Mountains led to a complete genome sequence of a new line of the human family tree – the Denisovans. Denisovans hay Denisova hominins là một loài của con người đã tuyệt chủng trong họ Homo.

[13] Một đột biến (mutation) trong sinh học là một thay đổi trong thứ tự của những nucleotide (A, T, G, C) trong một gene.

[14] ethnic-cleansing: giết sạch giòng lạ rửa máu bẩn, giết sạch những người hoặc khác chủng tộc (khác dòng giống), hoặc khác tôn giáo (không cùng một Gót), hoặc thường là cả hai (ngày nay).

[15] Người-Sư tử của Hohlenstein Stadel là một tượng khắc bằng ngà hình người có đầu sư tử. Nhà khảo cổ Robert Wetzel tìm thấy năm 1939, trong hang Stadel-Hohle, ở Hohlenstein Mountain, nằm trong vùng Swabian Jura, Tây nam Germany. Định tuổi carbon khoảng 38,000 TCN, khiến nó thành vật thể mỹ thuật sớm nhất được biết thuộc loại tượng hình đó ở châu Âu.

[16] [Ở đây và những trang kế tiếp, khi nói đến ngôn ngữ Sapiens, Tôi muốn trỏ những khả năng ngôn ngữ cơ bản của loài người chúng ta, nhưng không nói đến một phương ngữ/ngôn ngữ dân tộc nào. Tiếng Anh, Hindi và Tàu đều là những biến thái của ngôn ngữ Sapiens. Như chúng ta có thể biết, ngay ở thời điểm của Cách mạng Nhận thức, những nhóm Sapiens khác biệt đã có những phương ngữ khác biệt.]

[17] vocal language: ngôn ngữ trong đó, âm tạo bằng thanh quản, không chỉ bằng hơi thở.

[18] green monkey (Chlorocebus sabaeus): loài khỉ đuôi dài, chỉ chóp đầu có chút lông phớt xanh xám – thường nuôi để dùng thí nghiệm khoa học, nên gọi là vervet hay grivet

[19] Ngày nay cũng là công tác quan trọng của những cơ quan gián điệp, tình báo, và những vận động trong hậu trường chính trị quốc gia và giữa những quốc gia (ngoại giao)?

[20] [Robin Dunbar, Grooming, Gossip and the Evolution of Language (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1998).]

[21] fictions: chuyện bịa đặt chế biến giả dối. Nói chung về sự pha chế giả tạo hay sự bịa đặt, như đối lập với sự kiện thực tại. Cũng còn là (số ít) một tin tưởng hay phát biểu vốn sai lầm, không thực, nhưng thường được xem như là đúng thực, vì tiện dụng hay có mục đích thực tiễn.

[22] tin vào sáu điều không thể nào có thể có trước bữa ăn sáng – trong Alice in Wonderland.

Alice laughed: “There’s no use trying”, she said; “one can’t believe impossible things”.”I daresay you haven’t had much practice”, said the Queen. “When I was younger, I always did it for half an hour a day. Why, sometimes I’ve believed as many as six impossible things before breakfast”.

[23] Trong hầu hết các câu chuyện của Giấc Mộng Sáng Tạo (Dreaming), những thần linh tổ tiên đã đến quả đất trong dạng con người và khi họ di chuyển qua mặt đất, họ đã tạo ra các loài thú, cây, đá và các hình thức khác của đất mà chúng ta biết ngày nay. Họ cũng tạo ra các mối quan hệ giữa các nhóm và cá nhân với đất, các loài động vật và những người khác. Một khi các thần linh tổ tiên đã tạo ra thế giới, họ đã biến vào trong những cây cối, các vì sao, đá, hang suối nước, hoặc những đối tượng khác. Đây là những địa điểm thiêng liêng của văn hóa thổ dân và có những tính chất đặc biệt. Bởi vì tổ tiên đã không biến mất ở cuối của Dreaming, nhưng vẫn còn trong những địa điểm linh thiêng này, Dreaming là không bao giờ kết thúc, nhưng nối quá khứ và hiện tại, cư dân và đất đai.

[24] [“Frans de Waal, Chimpanzee Politics: Power and Sex among Apes (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 2000); Frans de Waal, Our Inner Ape: A Leading Primatologist Explains Why We Are Who We Are (New York: Riverhead Books, 2005); Michael L. Wilson and Richard W. Wrangham, ‘Intergroup Relations in ‘Chimpanzees’, Annual Review of Anthropology 32 (2003), 363–92; M. McFarland Symington, ‘Fission-Fusion Social Organization in Ateles and Pan, International Journal of Primatology 11:1 (1990), 49; Colin A. Chapman and Lauren J. Chapman, ‘Determinants of Groups Size in Primates: The Importance of Travel Costs’, trong On the Move: How and Why Animals Travel in Groups, ed. Sue Boinsky and Paul A. Garber (Chicago: University of Chicago Press, 2000), 26.”]

[25] [Dunbar, Grooming, Gossip and the Evolution of Language, 69–79; Leslie C. Aiello and R. I. M. Dunbar, ‘Neocortex Size, Group Size, and the Evolution of Language’, Current Anthropology 34:2 (1993), 189. For criticism of this approach see: Christopher McCarthy et al., ‘Comparing Two Methods for Estimating Network Size’, Human Organization 60:1 (2001), 32; R. A. Hill and R. I. M. Dunbar, ‘Social Network Size in Humans’, Human Nature 14:1 (2003), 65.]

[26] Peugeot Société Anonyme

[27] legal fiction: tôi tránh dùng từ “hư cấu” (mơ hồ); ở đây tác giả muốn nhấn mạnh và chỉ thẳng vào yếu tính của những sự vật việc này là sự bịa đặt, những gì đến từ sự bịa đặt đều là những giả dối đã được chế biến (giả đã trộn với thực, thực đã thêm với giả, và thực + (thắt) giả = giả < T+F=F); chúng không thực vì không có-thực, vì từ tưởng tượng của con người mà ra; và cũng vì sự tin tưởng “ngây thơ” của con người; như nhân vật trong Alice in Wonderland: khi còn trẻ có thể “tin vào sáu điều không thể nào có thể có” chỉ trong ngắn ngủi “trước bữa ăn sáng”. Những truyện bịa đặt, phim ảnh quen thuộc và nổi tiếng, vẫn thường tự tuyên bố tính chất “bịa đặt” này của chúng (“đây là tác phẩm tưởng tượng,….” rào trước đón sau “…. mọi trùng hợp nếu có là ngẫu nhiên, ngoài ý định của tác giả,.vv…”)

[28] Hocus Pocus: tôi tạm dịch là “úm ba la …. ra cái này!…..” vốn Hocus Pocus bắt chước câu “thần chú” Latin “hoc est corpus (meum)”, “đây là thân xác ta”, các thày chăn chiên vẫn trang nghiêm lập lại trong lễ đặc biệt, có tên “bí tích thánh thể” (cho tín đồ ăn thịt /uống máu Christ) ở Những nhà thờ Kitô.

[29] [Yvette Taborin, ‘Shells of the French Aurignacian and Perigordian’, trong Before Lascaux: The Complete Record of the Early Upper Paleolithic, ed. Heidi Knecht, Anne Pike-Tay and Randall White (Boca Raton: CRC Press, 1993), 211–28.]

[30] [G. R. Summerhayes, ‘Application of PIXE-PIGME to Archaeological Analysis of Changing Patterns of Obsidian Use in West New Britain, Papua New Guinea’, trong Archaeological Obsidian Studies: Method and Theory, ed. Steven M. Shackley (New York: Plenum Press, 1998), 129–58.]

Trạm Đọc

Theo Chuyendaudau

You may also like

Leave a Comment