Với tài văn thơ và cá tính như vậy, Cao Bá Quát được người đời tôn vinh là “ông thánh thơ ngông”.
Thế kỷ 19, nền văn học Thăng Long (Hà Nội) nổi bật cặp “Thần Siêu” (Nguyễn Văn Siêu) và “Thánh Quát” (Cao Bá Quát). Tài năng văn chương của hai ông đã được vua Tự Đức ngợi khen “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán”, tức văn như của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì đời Tiền Hán cũng không đáng kể nữa.
Cao Bá Quát (1809-1855) quê gốc làng Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở khu Đình Ngang, phía nam thành Thăng Long. Theo cuốn Danh nhân Hà Nội, gia đình ông truyền thông khoa bảng, có nhiều người từng giữ chức vụ trọng yếu trong triều đình như Binh Bộ thượng thư Cao Dương Trạc (đời Lê Trung Hưng), Tư nghiệp Quốc Tử Giám Cao Huy Diệu (thời vua Gia Long). Tuy nhiên, đến thế hệ cha của Cao Bá Quát là Cao Tửu Chiếu chỉ làm thầy đồ nghèo.
“Từ thuở nhỏ, Cao Bá Quát đã nổi tiếng thông minh, học giỏi. Năm 1832 ông thi Hương, đỗ Á nguyên”, sách Danh nhân Hà Nội viết.
10 năm thi Hội nhưng Cao Bá Quát không đỗ giải gì
Theo Danh nhân Hà Nội, Cao Bá Quát 10 năm theo đòi việc khoa cử. Sau kỳ thi Hương đỗ Á nguyên ở Hà Nội (năm 1832), ông tham gia thi Hội (cấp quốc gia) nhưng nhiều lần không đỗ vì vi phạm trường quy. Tương truyền, quyển thi của Cao Bá Quát thường viết đủ cả 4 lối chữ Chân, Thảo, Triện, Lệ nên bị đánh hỏng.
Dù không đỗ đạt nhưng với tài học rộng, văn hay, năm 1841 Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế làm chức Hành tẩu ở bộ Lễ rồi làm quan Sơ khảo ở trường thi Thừa Thiên.
Cao Bá Quát nhiều lần tỏ ý khinh miệt vua Tự Đức nên bị đày về quê làm giáo học
Một lý do khiến Cao Bá Quát dù làm quan nhưng vẫn nghèo khổ là tính “ngông”, không ngần ngại “chỉ điểm” cái sai của vua đến quan lại triều đình. Ông thậm chí còn hay dùng thơ để chế giễu chua ngoa những phường xu nịnh, thích thể hiện mình nhưng không tài giỏi.
“Tự Đức là ông vua hay chữ, thích văn chương, thường hay khoe thơ với các quan trong triều đình. Giai thoại kể rằng, một hôm tan buổi chầu, vua Tự Đức nói với các quan rằng: Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe. Rồi vua đọc luôn… Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt, thản nhiên tâu rằng: Tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi. Thần được nghe cả 8 câu kia. Nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
Tự Đức đang cao hứng về mấy câu thơ độc đáo của mình, nghe Cao Bá Quát nói thì rất bất ngờ. Ông bảo Bá Quát đọc cho nghe cả bài, nếu không đọc được thì sẽ trị tội kinh thường nhà vua và triều đình.
Cao Bá Quát suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến rồi cất giọng sang sảng ngâm thơ… Bài thơ vừa đọc xong, các quan nhìn nhau kinh ngạc, còn Tự Đức thì biết Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và thán phục. Nhà vua ban thưởng cho Cao Bá Quát chè và quế, nhưng vẫn bắt ông phải thú thật là đã bịa thêm 6 câu”, sách Danh nhân Hà Nội chép lại.
Sau nhiều lần tỏ ý kinh miệt triều đình và vua Tự Đức, năm 1851 Cao Bá Quát đã bị đày về làm giáo học ở vùng quê Quốc Oai (Hà Tây cũ, nay là Hà Nội). Ít lâu sau, ông xin từ quan lui về ở ẩn.
Với tài văn thơ và cá tính như vậy, Cao Bá Quát được người đời tôn vinh là “ông thánh thơ ngông”.