Trang trại xác – Chapter 7

by admin

Tôi không biết sao mình lại tốn công mua một cái điện thoại mới. Gần đây thật quá khó để tập trung, tôi gần như chẳng thể duy trì nổi một cuộc hội thoại. Tâm trí tôi thường bắt đầu ở một nơi này rồi lại chuyển đến một địa điểm hoàn toàn khác, đến nỗi tôi không thể nhớ rằng lúc đầu mình đang nghĩ gì nữa. Một ngày nọ, tôi xoay xở đặt được một cuộc điện thoại phỏng vấn cho một công việc khá tốt, nhưng giữa chừng thì tôi bị mất dấu lời nói chính bản thân, tôi quên mất hẳn câu hỏi đang là gì. Rồi cố hết sức để cứu vãn nhưng cũng vô ích, quá muộn rồi. Người phụ nữ cảm ơn tôi vì đã dành thời gian và cúp máy nhanh hết sức mà bà ta có thể. Chẳng ngạc nhiên gì khi không có cuộc gọi lại nào. Đằng nào thì tôi cũng ghét mấy cuộc phỏng vấn qua điện thoại như này. Những con người có trí tuệ bằng có nửa tôi, nhưng lại ngồi đánh giá tôi từ cách xa cả nghìn dặm. Họ thật may mắn khi không ngồi cùng phòng với tôi, không thì tôi sẽ vả cái tập hồ sơ văng khỏi tay họ nhé.

Tôi đang nói cái gì ấy nhỉ?

À điện thoại. Tôi mua một cái với tấm séc thất nghiệp đầu tiên của mình. Bảo cậu thanh niên ở cửa hàng rằng hãy đổi cho tôi một cái khác miễn phí, nhưng thằng bé lại bảo tôi chưa trả thêm bảo hiểm nên sẽ phải mua một cái mới. Nó thậm chí còn chẳng thể lớn hơn 20 tuổi, và thằng nhóc này được bắt nạt và buộc tôi phải chi một cục từ tiền trợ cấp thất nghiệp của mình, cho một thứ tôi đã từng mua rồi. Rồi nó cũng muốn tôi nâng cấp hợp đồng của mình, cho đến khi tôi bắt đầu to tiếng lại. Và thằng nhóc cũng im cái bài quảng cáo mua hàng khá nhanh sau đấy.

Tôi lại đang làm điều đó. Vấn đề là, có ai đó cứ gọi và lại cúp máy. Đầu tiên thì tôi nghĩ đó là vấn đề với cái điện thoại mới toanh, nhưng rồi tôi gọi lại số đó và chỉ nghe thấy tiếng thở từ đầu dây bên kia. Không có dâm dục hay gì đâu, kiểu, không biết nữa, như hoảng loạn ấy. Sau khi nghe ngóng thêm vài giây, tôi bực mình và nói, “Này? Ai đấy?” Có một tiếng động lớn như thể, dù bên kia có là ai đi nữa, họ đã dập điện thoại xuống thật mạnh và rồi đường dây tắt ngúm. Từ đó đến nay họ không gọi lại gì, nhưng tôi vẫn đang chờ đợi.

Và cũng không chỉ mỗi những cuộc điện thoại. Tối qua, tôi bị đánh thức bởi một tiếng gõ cửa giữa đêm. Khi tôi ra trả lời, không có ai ở đó cả. Không có ai ở trước cửa, không có ai trong hành lang. Mà tôi cũng đi ra cửa khá nhanh, nhanh hơn khoảng cần thiết để thang máy chạy từ sảnh lên trên tầng này. Có một chiếc cầu thang mà người đó có thể đã dùng để đi xuống, nhưng cánh cửa đấy kêu rất to, mà chắc chắn tôi sẽ nghe thấy nếu có ai mở nó.

Vậy, hoặc là một người hàng xóm của tôi đã gõ cửa vào hai giờ sáng trong đêm, hoặc là một gã vô hình nào đấy.

Tôi đã báo cảnh sát, nhiều hơn một lần, nhưng họ chẳng giúp ích được gì. Họ đã đến căn hộ tôi lấy lời khai về Andrews và bọn thám tử mạo danh kia, nhưng họ không có vẻ gì bị thuyết phục bởi câu chuyện của tôi. Mỗi khi tôi hỏi về cuộc tấn công đã khiến tôi nhập viện, họ đều nói vụ án đang “chờ thêm bằng chứng mới,” một cách khá lịch sự để nói nó đã được khép lại, nhỉ. Mà tôi sẽ không bỏ cuộc đâu. Tôi gọi và gọi và gọi cho đến khi một viên sĩ quan phải nói, “Nghe này, theo tôi đoán thì anh tự đánh thuốc mê mình rồi cũng tự khiến mình bị thương.” Đây là những người, đáng ra họ phải bảo vệ tôi cơ đấy. Anh ta nói tôi rất may khi không bị ai kiện tội hành hung hay phá hoại tài sản. Tôi rất may. Lời của tên đó đấy.

Hàng xóm tôi, Pete, người đã từng đến thăm tôi trong bệnh viện, nói có một vị thám tử đến và hỏi về tôi. Tôi cố giải thích rằng gã mà cậu ta nói chuyện có khả năng chẳng phải thám tử gì sất, nhưng giờ Pete cũng mặc kệ tôi. Thậm chí tôi còn trông thấy một mụ đàn bà ngó mình chòng chọc từ bên kia hành lang, nên tôi chỉ có thể cho rằng lời đồn đã đi khắp hoặc “vị thám tử” đã đến nơi này hơn một lần. Và nếu bàn về bọn luật sư, thì các bạn có thể quên nó đi nhé. Những người duy nhất hứng thú với vụ của tôi là loại cặn bã bòn rút người khác, hoặc bọn chỉ biết khẩn khoản giục nạn nhân đi kiện bên chịu trách nhiệm cho tai nạn, ngay từ đầu tôi sẽ không bao giờ thuê những thể loại này.

Đêm qua tôi không chợp mắt được nên đành mặc lại quần áo và rời tòa chung cư để đi dạo. Tâm trí tôi quay cuồng dữ dội, tệ thật, như thể hai người đang tranh cãi với nhau, nhưng làn gió lướt trên da tôi thật dễ chịu và trước khi kịp để ý, thì tôi đã đang ngồi trong một quán Lighthouse cách căn hộ mình vài dặm rồi. Họ biết tôi đủ rõ để có vài nhân viên cũng gật đầu chào, nhưng chưa đến mức biết tên hay việc làm của tôi. Đôi khi như vậy là tốt nhất- họ không hay gì chuyện của tôi, và tôi cũng không hay gì chuyện của họ.

Một nữ phục vụ đến gần để nhận món của tôi. “Tối nay không bè bạn gì, anh nhỉ,” cô ấy hỏi.

“Mình tôi thôi.” Tôi gọi một tách cà phê và một suất trứng omelette. Tôi không thích trứng lắm, nhưng gần đây tôi bắt đầu thèm chúng. Tôi bắt đầu thèm khá nhiều thứ kì lạ. Cô nhân viên kia đặt món cho tôi và đặt tách cà phê xuống, để tôi tự một mình chuẩn bị nó trong quán ăn trống rỗng. Khi đang đổ đường vào, tôi tình cờ nhìn thấy hình phản chiếu của mình trên mặt tấm gương đối diện lối đi.

Tôi không ngồi một mình.

Tôi nhận ra người đàn ông ngồi đối diện ngay lập tức, Andrews, hay cái đếch gì là tên thật của hắn, diện một bộ trang phục không cố công gì để khiến mình trông giống thám tử cả. Tôi hiểu ngay tức khắc rằng bản thân không phải thấy ma quỷ hay gì như vậy. Là một mảnh kí ức, một thoáng vụt qua của thứ gì từng bị quên lãng. Những vết cắt, vết bầm trên mặt tôi đã không còn, đúng hơn là chưa ở đó. Ngay cả quần áo tôi cũng khác, và tôi sợ rằng nếu mình nghiêng đầu, dù chỉ một chút, thì ma thuật này sẽ biến mất và khoảng ký ức sẽ bị trôi đi vĩnh viễn. Tôi có thể thấy từ phía rìa của mình rằng không có ai ngồi cùng ghế với tôi. Sự ảnh hưởng của nó lên tầm nhìn tôi thực chao đảo và mất phương hướng.

Bằng chuyển động môi của cậu ta, kí ức về Andrews đang trò chuyện với kí ức tôi, dù rằng tôi chẳng nghe lọt một từ gì hết. Tôi có thể trông thấy vết bớt trên cổ cậu ta từ góc nhìn này, và cả một tập hồ sơ màu vàng đặt trên bàn giữa hai chúng tôi. Trong một khoảnh khắc, âm thanh của hồi ức vụt qua tai tôi. Chỉ đúng 5 từ bằng giọng của Andrews”

“Anh phải quay lại đó.”

Nỗi tò mò lấn át, và lo rằng ký ức này sẽ biến mất trước khi mình kịp tìm được một câu trả lời, tôi chầm chậm, chầm chậm cúi đầu nhìn xuống bàn, hy vọng tập hồ sơ vẫn sẽ còn ở đó. Nhưng chỉ có mỗi cốc cà phê của tôi. Một giây sau và đồ ăn tôi gọi được mang đến càng phá tan khoảnh khắc ma quái vừa rồi. Tôi ăn phần trứng của mình và khi chén xong, tôi gọi hóa đơn. Trước khi cô nhân viên kịp đi mất, tôi vươn tay ra và dừng cô ấy lại. “Hỏi nhanh chút,” tôi nói. “Ý cô là gì khi lúc nãy bảo tôi ‘Tối nay không bè bạn gì, anh nhỉ’?”

“Ôi chà, tôi không có ác ý gì đâu,” cô ấy bĩu môi một cách thân thiện.

“Không sao- có phải cô nói vậy vì lần cuối tôi đến đây cùng một ai đó à?”

“Tôi nghĩ là cả vài lần trước đây nữa.”

“Thế cô có tình cờ nghe được tên, hay nhìn thấy thẻ tín dụng của hắn, gì đó như vậy không?”

Lắc đầu. “Anh ta trả tiền mặt nếu tôi nhớ không nhầm. Sao lại, có chuyện gì xảy ra hả?”

Tôi xua tay. “Cô sẽ chẳng tin đâu.” Cô nhân viên gật đầu, trông có vẻ hơi hoang mang. Tôi thanh toán và lên đường về nhà. Lần này tôi thấy thực sự xa vời. Màn đêm gọi tôi nhớ lại hòn đảo, gió rít trên đỉnh ngọn cây khiến tôi cảm thấy trống rỗng. Đến khi về đến nhà, người tôi lạnh cóng, rã rời và buồn ngủ từ việc đi bộ, nhưng thậm chí ngay cả khi nằm trên giường và cố gắng ngủ lại, tôi có thể nhận thấy giấc ngủ sẽ chẳng chóng mà đến gì cả.

Sau tiếng đồng hồ đầu tiên nằm thao thức trên giường, tôi bắt đầu nghe thấy những âm thanh. Những tiếng thì thầm từ bóng tối, nhưng ướt nhẹp, như thể chúng được tạo ra từ tiếng những con dòi lúc nhúc. Tôi nhảy dựng lên, bật đèn và kiểm tra mọi ngóc ngách trong căn hộ. Không có gì cả.

Khi tôi cuối cùng cũng thiếp đi được, tôi mơ lại về hồi mình còn là một đứa trẻ. Tôi được trở lại căn nhà cũng một người cha yêu thương và một người mẹ luôn tâm sự với tôi, chúng là những giấc mơ êm đẹp về một thời, các kỳ nghỉ lễ, vui chơi và bữa tối, nhưng bất kể khi nào tôi quay đầu lại, thì ngôi nhà, bầu trời, mọi thứ, đều thắp rực lên trong một quầng sáng đỏ ngầu.

_____________________

Tính cách của ông dường như đã thay đổi kể từ khi Terri tiết lộ cô ta muốn hồi sinh anh trai cổ. Liệu quá trình đó đã bắt đầu chăng? Có phải đó là nguyên nhân khiến ông mất trí nhớ cái đêm cuối cùng làm việc trên đảo không? Hay là còn hơn thế nữa, rằng đây là lý do khiến ông cảm thấy có nhiều hơn một người trong tâm trí mình?

Câu chuyện thật nặng nề và khó hiểu.

Cũng giải thích cho sự thèm thuồng những món mà OP không thích nữa.

_____________________

Translator’s note: Andrews từng nói: “Anh phải quay lại đó.” Một giấc mơ về gia đình hồi nhỏ, rồi mọi thứ rực lên trong quầng sáng màu đỏ.

You may also like

Leave a Comment